Nghệ thuật dùng từ mới

Thứ Sáu, 27/08/2021, 16:16

Người lính đích thực nào cũng muốn luôn trau dồi thứ vũ khí mà mình sử dụng trong chiến đấu, để không ngừng nâng cao tính năng tác dụng của nó. Vũ khí của nhà văn là ngôn từ và việc nhà văn nào cũng khát khao rèn giũa thứ vũ khí đó cho sắc bén, trong đó có nhu cầu sáng tạo ra những từ ngữ mới là một nhu cầu chính đáng và bức thiết. Từ xưa đến nay đều như vậy.

Tuy nhiên, sáng tạo được một từ mới thực sự có sức sống trong công chúng và thời gian để có thể bổ sung cho vốn từ vựng của dân tộc là một điều vô cùng khó khăn. Đến một bậc thi bá như Nguyễn Du với thi phẩm Truyện Kiều bất hủ mà nếu nghiêm khắc ta cũng rất khó tìm thấy một từ nào chắc chắn chỉ do cụ Nguyễn khai sinh ra. Thí dụ quen biết nhất vẫn là trong câu thơ nhằm cực tả cảnh tù túng, quẩn quanh của Kiều ở lầu xanh khi mà trong lòng thì ngổn ngang trăm mối:

“Song sa vò võ phương trời
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng”
.

image002.jpg -0

Tượng Đại thi hào Nguyễn Du trong Khu tưởng niệm ông ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. 

Vào thời ấy mà dám lật ngược từ “hoàng hôn” thành “hôn hoàng” thì quả là một hành vi táo bạo chỉ có ở một bản lĩnh lớn.

Nhưng táo bạo nhất thì phải kể đến người đàn bà nổi loạn có cái tên dịu dàng Hồ Xuân Hương:

“Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom
”.

Giữa cái cảnh ao tù nước đọng ngày ấy, một từ như từ “phòm” ném ra ở đây thì đúng là một quả bom - như cách nói bây giờ đó còn là một quả bom “xếch” nữa kia. Đây là một từ thuần Việt không tiền khoáng hậu, trước Hồ Xuân Hương chưa ai dùng và sau bà cũng chẳng ai dám dùng. Vì nó độc quá, tức là nó đúng quá, nó theo nguyên tắc dùng cấu trúc phát âm để tượng hình, nó được dùng tuyệt đối đúng chỗ và đúng thần, nó là độc đắc, là “số dách”, không thể tùy tiện nhấc sang chỗ khác.

Cái tài của người dùng chữ ở đây là đặt nó lên ngai rồi lại phải bày ra tả phù hữu bật để giữ cho cái triều đình từ ngữ ấy vững như bàn thạch: Tả phù hữu bật ở đây là từ “nứt” và đặc biệt là cụm từ “hỏm hòm hom”, một nhóm từ cũng độc đáo và tài tình không kém, nó là nét mực bổ sung tô đậm thêm cho lý do tồn tại của từ “phòm” - hãy thử hình dung, nếu không có cụm từ bổ trợ ấy thì từ “phòm” sẽ chân không bén đất, cật không bén giời, lơ lửng thế chưa chừng đổ cũng nên!

Có lẽ chính vì thế mà mặc dù xưa nay thiên hạ đều bái phục cái cách dùng từ tài tình hy hữu này, nhưng từ sau lần ra mắt đó đến nay chưa một ai dám dùng lại nó, vì nếu dùng thì phải dùng luôn cả cụm từ hỗ trợ sau đó, mà như thế thì bất tiện quá, thành ra ăn cắp rồi còn gì.

Cũng tài tình và độc đáo như thế là hai câu:

“Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông
Nó bảo nhau rằng: ấy ái uông”.

Sự chính xác và giản dị đến mức hồn nhiên làm nên tính bất ngờ mà hợp lý không chê vào đâu được của cụm từ “ấy ái uông”. Đấy là thứ của báu trời cho, là mẫu mực cho cái mà ta vẫn gọi là “xuất khẩu thành thơ” mà chỉ những thiên tài của nghệ thuật ngôn từ như Bà Chúa thơ Nôm mới có được, mà trong đời cũng chỉ có được đôi ba lần thôi. Gọi đây là “lăng xê” từ mới có thể chưa chính xác về khái niệm vì mấy tiếng “ấy ái uông” có thể chưa phải là từ mà chỉ là những âm thanh biến dạng của người ngọng, nhưng ít ra thì đó cũng là một cách diễn đạt bằng âm thanh tài tình thuộc loại độc nhất vô nhị, bởi nó vẫn hàm chứa ngữ nghĩa ở bên trong, nên không có cách gì khác hơn là phải coi đó như một cụm từ mới sáng tạo của nhà thi sĩ.

Hình thức mặc dù cũng có những giá trị tự thân, nhưng về cơ bản vẫn là để chở nội dung và do vậy cũng về cơ bản chỉ những sáng tạo hình thức bắt nguồn từ nhu cầu có thực của nội dung mới hy vọng có sức sống - đương nhiên là với những sáng tạo thành công. Chính vì vậy, một cuộc sống tù đọng thì vốn từ ngữ cũng quẩn quanh - bốn ngàn năm phong kiến trước sau cũng chỉ có “chi hồ giả dã”, “hỷ nộ ái ố” ... Ngược lại, một cuộc sống sinh sôi, năng động như thời hiện đại thì buộc phải có những ngôn từ mới, để có thể chuyển tải những chất liệu sống ngày càng rộng hơn và sâu sắc, tinh vi hơn.

image001.jpg -0

 Tượng nữ sỹ Hồ Xuân Hương trong Khu tưởng niệm bà ở làng Quỳnh (nay là Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An).

Ta sẽ thấy dấu ấn rất rõ của thời đại trong sự giao thoa từ ngữ, có những từ thoạt đầu là thuộc một khu vực nào đó nhưng dần dà trở thành vốn từ phổ cập, chẳng hạn “mã hóa”, “giải mã”, “bảo lãnh”, v.v. . . và đặc biệt là từ “hóa giải”, một từ có nội hàm rất rộng lớn và được dùng rất hiệu quả trong những tình huống đặc biệt khó diễn đạt.

Dạo ở Trường Sơn, tôi thường nghe lính tráng ca cẩm tình trạng “bang bách” để chỉ công việc bộn bề, ngổn ngang; lại có nhà  văn hay nói từ “khảng tảng” mà thú thực tôi cũng không thật hiểu nghĩa là gì, còn nhà thơ Trần Đăng Khoa thì nhắc lời nhà thơ Xuân Diệu chỉ sợ đến lúc mình như gái già không ai “ỏ ê” đến nữa. Anh Khoa cũng hay giễu mấy ông phê bình tầm chương trích cú cứ thích “vạch vòi” câu chữ, hoặc một nhà văn khác thì bảo mấy vị ấy có ít thì cứ nói “vóng vót” lên thành nhiều,  đến mức thành ra “vóng véo”!

Viết về cái tài nhìn xa trông rộng của Bác Hồ, tôi cũng nói rằng mọi đường đi nước bước của cách mạng Việt Nam “đã hình dung  trong vạch vẽ của người”. Rõ ràng ở đây có những nhu cầu thực sự đang cựa quậy bên trong khiến cho người nói khổ sở như người đau đẻ, phải cố mà rặn cho ra một cái sinh linh gì đó nó đang đòi ra mà chưa biết hình hài sẽ như thế nào. Nhà thơ Hữu Thỉnh viết:

“Chị không thể làm như con rắn que cời
Lột cái xác già nua dưới gốc cây cậm quẫy”.

Từ “cậm quẫy” có vẻ như là sáng tạo của nhà thơ này. Nguyễn Duy cũng thích nhào nặn từ ngữ, trong bài “Vợ ốm”, anh viết:

“Tình cờ em ngã bệnh ngang
Phang anh xất bất xang bang sao đành”.

Tôi không tin trong từ điển có cụm từ “xất bất xang bang”, hình như nó có đâu đó trong những câu nói dân dã của bà con miệt vườn Nam Bộ, nhưng đặt vào đây thấy được, không để nỗi bật ra - nó có vẻ như là bà con xa với từ “bang bách” vừa nói ở trên.

Trở lại với nhận xét chính cuộc sống phát triển năng động đẻ ra từ ngữ mới, xin lấy ngay thí dụ ở cái hoạt động mà ở xứ ta nhiều lúc người ta phát điên lên vì nó, tức là bóng đá, thì sẽ rõ. Tôi thực sự khâm phục cái cách mà những người có liên quan đến bóng đá ném ra hàng xêri những từ mới nhằm diễn đạt những gì diễn ra trên các chảo lửa, từ cách gọi những vị trí thi đấu trên sân như “hậu vệ thòng, hậu vệ dập, hậu vệ quét”, rồi “tiền vệ trụ, tiền vệ lùi” cho đến “tiền đạo cắm”… đặc biệt là những từ mô tả các hành vi và động thái rất chính xác và đầy biểu cảm: dãn biên, chồng cánh, bắt người, pretxing, độ rướn, nhịp, vuốt, lốp, vẩy, chọc khe, luồn trôn kim, v.v và v.v. . . Nhưng ấn tượng nhất là gần đây đã nghe từ miệng một huấn luyện viện khen cầu thủ trụ cột, một nhạc trưởng của đội mình là: “Cậu ấy có khả năng “đọc” được trận đấu?”. Thật tuyệt vời – văn, thơ đấy chứ còn ở đâu nữa!

Anh Ngọc
.
.