Những kỷ niệm ân tình với "thi sĩ của mùa xuân và tình yêu"

Thứ Tư, 23/01/2019, 12:24
Quan điểm sống của Xuân Diệu rất rõ ràng: Sống là để làm việc có ích cho đời. Ông ví mình như một quả cam: "Cái quả cam này đà vắt hết / Hiến cho non nước, hiến người thân". Và: "Tôi là một trái cam, hãy vắt kiệt lấy nước của nó - đó là những dòng thơ tôi".


Dạo ấy vào một ngày cuối xuân, tôi ở trong nhóm phóng viên Thông tấn xã Việt Nam lên tỉnh miền núi Yên Bái làm tin, ảnh chuyên đề về đề tài nông nghiệp - cuộc vận động đồng bào vùng cao định canh định cư. Tại nhà khách của UBND tỉnh, chúng tôi gặp nhà thơ Huy Cận (bấy giờ đương chức Thứ trưởng Bộ Văn hoá).

Vốn thích văn học, yêu thơ nên với tôi đây là một dịp may hiếm có. Ở nhà khách, chúng tôi có nhiều dịp đàm đạo với nhà thơ. Khi chia tay, Huy Cận dặn khi nào về Hà Nội thì nhớ ghé nhà chơi. Ông đọc địa chỉ nhà mình bằng hai câu văn vần: "Nhà tôi hai bốn Cột Cờ/ Ai yêu thì đến, hững hờ thì đi".

Hết đợt công tác ở Yên Bái, trở về Hà Nội, vào một buổi tối, tôi đến thăm nhà Huy Cận. Vẫn dáng niềm nở có phần xuề xoà thường nhật, Huy Cận tiếp tôi ở phòng làm việc của nhà thơ Xuân Diệu. Ông giới thiệu tôi với Xuân Diệu. Thật may mắn, tôi được gặp cả hai nhà thơ lớn cùng một lúc trong khung cảnh rất gần gũi, thoải mái.

Nhà thơ Xuân Diệu và nhà thơ Huy Cận thời trẻ.

Chỗ ở của Xuân Diệu chỉ có một buồng - vừa là nơi ngủ, vừa là phòng làm việc, tiếp khách, phòng ăn. Giá sách lớn cũng ở đó. Về sau, tôi được biết trong căn phòng này còn có một ngách nhỏ chứa đồ vặt. Nơi đây có kê một chiếc bàn và một ghế băng. Những người đã trở nên thân quen (mà phần lớn là thanh niên) hoặc người tới sau có thể vào đây đọc sách mỗi khi nhà thơ bận tiếp khách quan trọng.

Tôi cũng đã mấy lần vào đây và được Xuân Diệu đưa cho đọc những quyển sổ thơ tình chép tay của ông mà chưa thấy công bố bao giờ. Rất nhanh, khoảng cách giữa chủ và khách chẳng còn, bởi Xuân Diệu nói chuyện tự nhiên; lời nói, cử chỉ thân mật, giảng giải cho nghe về thơ, kiến thức làm thơ. Ông chiếm được cảm tình và lòng mến mộ trong tôi ngay từ buổi đầu tiên gặp gỡ như thế.

Ít lâu sau, tôi được cử đi Cuba học tiếng Tây Ban Nha và văn học châu Mỹ Latinh. Thỉnh thoảng tôi vẫn dịch thơ gửi về đăng báo ở Hà Nội, trong đó có bài "Cây đàn ghita của Víchto Hara" (đăng trên báo Văn nghệ, nhạc sỹ Phan Nhân đã phổ nhạc bài thơ này của Phêlích Pita Rôđrighết thành bài hát cùng tên mà một thời được nhiều bạn trẻ Việt Nam yêu thích). Trở về nước, tôi sang giảng dạy văn học Mỹ Latinh ở Đại học Sư phạm 1 Hà Nội, vẫn tiếp tục dịch thơ gửi đăng trên tạp chí Tác phẩm mới do Xuân Diệu làm Tổng biên tập.

Một hôm, tôi nhận được thư của Xuân Diệu, nhắn ra nhà chơi và tham gia dịch thơ Nicôla Ghiden. Hôm sau, tôi đạp xe xuống 24 Cột Cờ (nay là đường Điện Biên Phủ). Xuân Diệu nói đại ý: Dịp sang thăm Cuba, anh Cù Huy Cận nhận với Nicôla Ghiden sẽ dịch và xuất bản tác phẩm của nhà thơ Mỹ Latinh này ở Việt Nam. Nhưng anh ấy bận công tác Thứ trưởng nên Xuân Diệu phải thực hiện lời hứa.

Ông đề nghị tôi, hàng ngày hết giờ làm việc ở trường thì tới nhà ông để dịch thơ, cố gắng để sau một tháng cho xong. Việc của tôi là đối chiếu bản dịch tiếng Việt với nguyên bản tiếng Tây Ban Nha (Xuân Diệu dịch qua bản tiếng Pháp). Tôi cũng dịch từ nguyên bản một số bài. Bản dịch nào không phải chữa thì đứng tên riêng. Còn bản nào Xuân Diệu phải gia công nhiều thì cuối bài dịch đề tên hai người, tên tôi đứng trước, rất sòng phẳng. Về dịch thơ, Xuân Diệu nêu quan điểm rõ ràng - đó là công việc của những nhà thơ.

Bài thơ dịch phải trung thành với ý của nguyên tác. Người dịch không được gò vần, tỉa tót, gọt đẽo quá mức mà thay đổi mất bài thơ. Ông lấy ví dụ cụ thể: Một bài thơ hay như thể thiếu nữ đẹp. Nếu trang điểm quá cầu kỳ tới mức loè loẹt... thì không còn là một phụ nữ đẹp nữa, có khi còn chẳng nhận ra đấy là phụ nữ.

Đọc thơ, Xuân Diệu nắm được tứ và thần thái tác phẩm rất nhanh; cho rằng tác phẩm của những nhà thơ lớn như N. Ghiden đều chứa đựng lôgich nghệ thuật nội tại. Từ ngữ trong bản dịch phải lột tả cho được điều ấy. Có thể lấy bài "Mía" làm một ví dụ: "Người da đen gắn mình trong đồng mía/ Tên Yăngki phởn phơ trên đồng mía/ Đất mỡ mầu lặng nằm dưới đồng mía/ Máu đỏ thắm chảy ra ngoài chúng ta!".

Hãy lưu ý những từ "trong", "trên", dưới", "ngoài" ở bản dịch của Xuân Diệu! Những ngày làm việc gần Xuân Diệu, tôi thấy ở ông một tấm gương về lao động nghệ thuật cần mẫn, sống chân thành, đôn hậu, chu đáo với hết thảy mọi người. Đêm nào Xuân Diệu cũng làm việc đến khuya. Món bồi dưỡng ban đêm thường là 1-2 quả trứng ngâm trong thuốc Bắc (do ông tự chế). Khi suy nghĩ và viết căng thẳng, ông có thói quen tự đấm tay lên đầu, miệng nói: "Đau óc quá!". Có lần nhà thơ bảo tôi: Thấy việc gì làm được thì cố gắng làm khi còn trẻ. Đến khi sờ lên đầu thấy nắm tuổi to thì khó làm lắm!

Quan điểm sống của Xuân Diệu rất rõ ràng: Sống là để làm việc có ích cho đời. Ông ví mình như một quả cam: "Cái quả cam này đà vắt hết / Hiến cho non nước, hiến người thân". Và: "Tôi là một trái cam, hãy vắt kiệt lấy nước của nó - đó là những dòng thơ tôi".

Xuân Diệu luôn sống hồn nhiên, như chẳng biết tới già nua bao giờ. Ông vui suốt buổi khi gặp một người dân bình thường thể hiện lòng quý trọng nhà thơ: Nhận ra thi sỹ Xuân Diệu đi mua hoa, bà lão bán hàng chọn giùm ông những bông hoa hồng đẹp nhất; người bán nước mía ven đường nhất quyết không lấy tiền một li nước mát biếu nhà thơ. Về nhà, ông hồ hởi kể với người thân: Mình đang còn có ích!

Thế rồi, ông lại ngồi vào bàn cặm cụi viết như chưa từng biết mệt mỏi là gì.

Cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ lớn Xuân Diệu thể hiện một cách minh bạch quan niệm thế nào là hạnh phúc? - một câu hỏi lớn cho hôm nay và mai sau mà người đời chẳng dễ thống nhất cùng nhau!

Thật hiếm thấy nhà văn nào lại quý trọng lớp người viết văn trẻ như Xuân Diệu. Chưa thấy ai tới hỏi về thơ mà ông từ chối tiếp đón ân cần. Khách ra về, việc đưa tiễn là thói quen của nhà thơ; nhiều khi tiễn bạn văn tới tận gốc cây hoàng lan, hay bóng của vòm cây phía trên cổng rồi đứng lại đàm đạo hồi lâu. Như có sự sắp đặt trước của định mệnh, tác phẩm kỳ công cuối cùng của Xuân Diệu là bản tham luận "Sự uyên bác với việc làm thơ", được công bố tại Hội nghị Những người viết văn trẻ lần thứ III vào sáng ngày 19/2/1985 ở Hà Nội (chỉ sau hơn mười tiếng đồng hồ, nhà thơ trút hơi thở cuối cùng ở bệnh viện Hữu nghị Việt - Xô).

Cố nhà thơ Xuân Diệu.

Trong bài viết này, thấy cần nói đôi dòng về một người phụ nữ (ít thấy được nhắc đến trong các bài viết về Xuân Diệu) mà nhiều năm tháng đã tận tình chăm lo cho đời sống của nhà thơ. Đó là U Khang. Bà hơn tuổi Xuân Diệu, từ nông thôn ra Hà Nội giúp việc cho nhà thơ đã lâu và sống cho đến cuối đời ở đây. Theo cách gọi của Xuân Diệu, chúng tôi đều gọi bà là U Khang.

Cứ tối tối, sau khi cơm nước xong, bà lại từ phòng riêng phía nhà bếp đi lên, lễ phép nói với Xuân Diệu: "Thưa bác! Ngày mai bác ăn gì?". Biết "thực đơn" (bao giờ cũng rất đơn giản), rồi nhận đủ tiền cho ngày mai sau khi tính toán tiền chợ hôm nay còn lại, bà vui khi thấy Xuân Diệu ăn ngon miệng và buồn khi trong nhà có chuyện chẳng lành. Ngày ấy còn chế độ bao cấp. Một hôm kẻ gian vào nhà lấy đi toàn bộ tem phiếu mua thực phẩm cung cấp của Xuân Diệu. Bà lo lắng, bới tìm khắp các xó nhà, tiếc mãi như chính mình bị mất tài sản quý.

Có một kỷ niệm mà cả gia đình tôi còn nhớ mãi: Nhà thơ Xuân Diệu đạp xe đến dự lễ cưới của chúng tôi tổ chức ở sân tập thể khối phố gần chợ Ngọc Hà. Món quà mà ông trao tặng thật là quý vô giá. Đó là hai bài thơ tình yêu do ông tự đọc trước hội hôn. Khi Xuân Diệu đọc thơ, rất đông bà con khu phố tới lắng nghe, vỗ tay tán thưởng hồi lâu. Trong số thính giả hôm ấy có cả những em bé chưa hiểu thơ nhưng cũng chạy tới để tận mắt mình được ngắm nhìn bác Xuân Diệu kính mến với tất cả lòng ngưỡng vọng thơ ngây.

Trong tháng dịch thơ Nicôla Ghiden, có đêm tôi phải nghỉ lại ở nhà Xuân Diệu vì đường về Cầu Giấy vừa xa, vừa vắng. Xuân Diệu tự tay lấy giường xếp, chăn màn cho tôi, dặn mắc màn cẩn thận kẻo muỗi đốt. Ông cũng không quên nhắc phải khoá xe đạp cho yên tâm. Sau đó ít lâu, mẹ tôi qua Hà Nội trên đường vào Nam thăm con gái - đang là giảng viên văn khoa Trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang. Biết tin, Xuân Diệu bảo tôi: "Mời cụ vào nhà nghỉ ngơi cho đỡ mệt rồi mai hãy lên tàu!". Mẹ tôi cứ xuýt xoa, cảm kích mãi trước thịnh tình ấy!

Năm 1981, tập "Thơ Nicôla Ghiden" được xuất bản tại Hà Nội (Nhà xuất bản Văn học). Với tôi, đây là một kỷ niệm đẹp và cũng là dịp học tập được nhiều điều ở nhà thơ lớn.

Xuân Diệu "Giã từ... cõi thực để vào hư" - như nhà thơ tự nói về mình trong bài thơ "Không đề", đến nay thấm thoát đã trên ba mươi năm. Người làm thơ và bạn đọc yêu thơ vẫn đọc thơ Xuân Diệu và luôn cảm nhận ở đó hương vị mùa Xuân và tình yêu.

Chu Huy Sơn - Xuân 2019
.
.