Nhạc sĩ Thanh Trúc - Vẫn ngọt ngào câu hát bông sen

Thứ Ba, 04/05/2021, 10:21
Nhạc sĩ Thanh Trúc qua đời vì một cơn đột quỵ vào ngày 6/4/1986, ở tuổi 47, khi đang giữ vị trí Trưởng đoàn Ca múa nhạc Bông Sen - TP Hồ Chí Minh. 35 năm đã trôi qua, nhiều vật đã đổi, nhiều sao đã dời, nhưng những ca khúc của nhạc sĩ Thanh Trúc vẫn còn ngân vang để công chúng phải nuối tiếc tìm lại chân dung ông trong bụi mờ thời gian.


Nhạc sĩ Thanh Trúc, tên thật là Lâm Quang Măng, sinh năm 1939, ở xã Tân Đức, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Là con trai lớn trong một gia đình có truyền thống cách mạng, nên Lâm Quang Măng từ nhỏ đã vào chiến khu làm giao liên. Năm 1954, ở tuổi 15, Lâm Quang Măng tạm biệt cha mẹ và bốn đứa em, để tập kết ra Bắc.

Tại Hà Nội, Lâm Quang Măng và người bạn đồng hương Chánh Trực vốn nằm trong quân số được đào tạo làm lính thông tin, nhưng thấy cả hai đam mê âm nhạc nên tổ chức quyết định chuyển họ về biên chế Đoàn ca múa nhạc Trung ương. Lâm Quang Măng học đàn violin, và thường trình diễn ca khúc "Gửi Cà Mau" của Lê Lôi một cách tâm đắc cùng niềm khắc khoải xa nơi chôn nhau cắt rốn "tim tôi rung lên trong tim Cà Mau, trong máu sôi theo dòng máu quê nhà".

Trên đất Bắc, Lâm Quang Măng cũng tập tễnh sáng tác, nhưng chưa bộc lộ hết khả năng. Năm 1964, Lâm Quang Măng quay lại miền Nam chiến đấu, gia tài âm nhạc chỉ có ca khúc "Em là chiến sĩ Giải phóng quân". Sau mấy tháng băng rừng, Lâm Quang Măng vào đến Căn cứ Trung ương Cục miền Nam ngày 15-12. Đánh dấu sự trưởng thành của bản thân sau 10 năm tập kết ra Bắc và trở về, Lâm Quang Măng lấy bút danh là Thanh Trúc, với ý niệm Măng đã lớn không thành Tre thì cũng phải thành Trúc. 

Nhạc sĩ Thanh Trúc (1939 - 1986).

Ở chiến khu Tân Biên, nhạc sĩ Thanh Trúc được hòa mình vào không khí văn nghệ kháng chiến, như ông bộc bạch: "Những đêm biểu diễn hào hùng trên sân khấu đất, tự nhiên dưới rừng cây huyền ảo. Nghèo, thiếu về trang bị vật chất, non nớt về tài năng, đơn sơ về tổ chức. Một vườn hoa nghệ thuật thật đáng kiêu hãnh và tự hào. Ngoài số anh em đã quen thuộc, còn đa số là anh chị em từ chân đất, tay chai bước lên "thánh đường tôn nghiêm" cầm đàn múa hát". 

Nhạc sĩ Thanh Trúc đã được rèn luyện bằng thực tế sôi động và khốc liệt của cuộc chiến đấu gian khổ cùng quân dân miền Nam. Trong bức thư gửi ra Hà Nội cho nhà thơ Bảo Định Giang vào cuối năm 1967, nhạc sĩ Thanh Trúc viết: "Cháu sẽ nỗ lực hơn, nếu cần những đêm trắng để làm giai điệu, cháu sẽ có đủ sức, tuy sức khỏe của cháu không khá lắm Cháu vừa đi công tác Đông Xuân 66-67, nghỉ có hai ngày là lao vào công tác mới. Tuy thỉnh thoảng khớp xương có hành, nhưng không sao, cháu vẫn đi trọn vẹn các đợt. Bây giờ đã quen lắm rồi. Cháu đã về Bình Tân, Nhà Bè, "với tay là tưởng chừng như có thể dỡ ngói trên nóc nhà Chợ Lớn được", vào các ấp chiến lược, diễn gần bót từ 150 đến 300 mét. Vào làng Dầu Tiếng diễn cách chốt Mỹ 700 mét thôi; cũng đã bị con vét ở địa đạo Củ Chi đất thép cắn sần mình, đầu đội pháo cực nhanh và B.52 của Mỹ, vậy mà chẳng hề hấn gì hết. Cháu cũng đi với Giải phóng quân trọn một mùa Đông Xuân 66-67, theo từng bước của trận càn "Giăng-xơn xi-ty". Phương thức hoạt động chiến trường này hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng và năng lực của cháu. Bây giờ cháu trai của chú cũng tham gia múa, mà múa được mấy bà má thưởng tiền nữa, hát trong tốp ca dân tộc, đóng ca cải lương - vai Bảy Lỳ trong vở "Đất" của anh Nguyễn Vũ. Ngoài ra cháu cũng tranh thủ sáng tác ca khúc và viết ký sự. Những bài viết của cháu đều được phục vụ ở đây".

Nhạc sĩ Thanh Trúc cũng khiêm tốn thừa nhận trong bức thư gửi nhà thơ Bảo Định Giang: "Tuy khả năng bị hạn chế, vì chú xem, suốt thời gian ngoài kia cháu có được ngồi học ở trường ngày nào đâu. Chỉ được hưởng thụ cái lớn lao của phong trào thôi, nên về đây gặp một số khó khăn về kỹ thuật. Nhưng tuyệt nhiên về mặt khác không gặp trở ngại gì, cháu đã khắc phục cái nhược ấy bằng sự nhiệt tình và sự hăng say xốc tới, dám nghĩ, dám làm". Vậy mà, ca khúc "Câu hát bông sen" được nhạc sĩ Thanh Trúc sáng tác dưới những tán rừng biên giới Tây Ninh, qua giọng hát của ca sĩ Tô Lan Phương đã bay khắp mọi nẻo đường đất nước thời khói lửa: "Mưa nắng bao năm anh đi trả thù cho non nước. Giặc về phá nát quê ta, nhưng không hết được sen trên đồng ta. Trên đồng ta sen vẫn nở hoa".

Năm 1969, người em út của nhạc sĩ Thanh Trúc là nhà biên kịch Lâm Quang Tèo vào chiến khu Tân Biên, mang theo một tin dữ. Nhạc sĩ Thanh Trúc bật khóc khi nghe đứa em thứ là liệt sĩ Lâm Quang Nghiêm đã hy sinh trong một trận càn của địch ở Cái Nước - Cà Mau. Nhà biên kịch Lâm Quang Tèo kể: "Anh Thanh Trúc viết một bức thư gửi về cho má tôi, bày tỏ sự đau đớn rằng mình chỉ được nhìn thấy em ruột là cậu bé Lâm Quang Nghiêm hồn nhiên lam lũ mà không được chứng kiến chàng trai Lâm Quang Nghiêm đi dưới bóng cờ cách mạng".

Nhận được bức thư của con trai cả, người mẹ từ Cà Mau lặn lội lên chiến khu Tân Biên để thăm nhạc sĩ Thanh Trúc. Mẹ con gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Ngày tiễn mẹ về quê, nhạc sĩ Thanh Trúc không quên gửi theo ca khúc "Người lính già vui vẻ" mà mình vừa sáng tác, để nhờ mẹ chuyển đến nhà văn Nguyễn Hải Tùng - Trưởng đoàn Văn công Quân khu Tây Nam bộ, với mong muốn được đóng góp vào hoạt động văn nghệ kháng chiến ở quê nhà. Nhà biên kịch Lâm Quang Tèo nhớ lại: "Khi má tôi đi được nửa buổi thì anh Thanh Trúc giật mình lo lắng, nếu địch lục soát được ca khúc đó thì nguy hiểm cho tính mạng của má tui. Anh Thanh Trúc đã đuổi theo và may mắn bắt kịp má tui ở bến xe lam ngoại ô". 

Vậy làm sao phổ biến ca khúc "Người lính già vui vẻ" ở miệt sông nước Cửu Long? Người mẹ đề nghị với Thanh Trúc: "Hay là mày dạy cho tao hát đi. Về dưới kia, tao hát lại cho ông Nguyễn Hải Tùng nghe!". Nhạc sĩ Thanh Trúc vâng lời người mẹ. Và ca khúc "Người lính già vui vẻ" đã được vang lên lần đầu tiên giữa những rặng tràm rặng đước Đầm Dơi: "Năm xưa ấy ta lên đường, cầm tầm vông đánh Tây can trường. Nay đi đánh Mỹ xâm lược, già lại gươm súng ra sa trường. Dầu nơi mái tóc hoa râm, mà lòng vẫn thấy thanh xuân. Nợ non sông chưa trả hết, kẻ thù kia chưa quét hết. Đời trẻ trung oanh liệt của chúng ta, là tiếng ca trên đường vui chiến đấu tuổi già".

Có một chi tiết được nhà biên kịch Lâm Quang Tèo tiết lộ thêm: "Má tui không biết chữ cũng không biết nhạc, nên má tui đã phổ biến ca khúc "Người lính già vui vẻ" có nhiều chỗ sai lệch về ca từ và giai điệu, so với bản nhạc mà anh Thanh Trúc viết. Sau năm 1975, anh Thanh Trúc phát hiện ra điều này và lặng lẽ sửa lại tác phẩm của mình trùng khớp với… trí nhớ của má tui". Nghĩa là, "Người lính già vui vẻ" đã được nhạc sĩ Thanh Trúc viết hai lần. Lần thứ nhất, viết bằng sự tài tình của một nhạc sĩ. Lần thứ hai, viết bằng sự hiếu thảo của một đứa con. 

Sau ngày đất nước thống nhất, nhạc sĩ Thanh Trúc đảm nhận vai trò Trưởng đoàn Ca múa nhạc Bông Sen - TP Hồ Chí Minh. Lúc còn ở R, nhạc sĩ Thanh Trúc quan niệm chiến tranh là "một cái trường học mà không còn bao lâu nữa mãn khóa, không bao giờ mở lại nữa". Thế nhưng, hòa bình chưa được bao lâu, thì Pol Pot đã xua quân tràn qua biên giới. Vì vậy, năm 1978, nhạc sĩ Thanh Trúc đã viết ca khúc "Ngày mai anh lên đường" nổi bật nhất trong sự nghiệp của mình: "Màn đêm buông trên đường, hàng me lung linh ánh đèn. Đêm nay đi bên em giữa lòng thành phố yêu thương. Ngày mai anh lên đường, ngày mai anh ra chiến trường. Để lại em yêu dấu có khoảng trời rừng núi. Lung linh ngàn vì sao sáng trên đường hành quân diệt thù".

Là người đi qua chiến tranh và hiểu cái giá phải trả cho chiến tranh, nhạc sĩ Thanh Trúc càng thấm thía những hệ lụy mà chiến tranh để lại. Ông là nhạc sĩ đầu tiên lên tiếng về di họa chất độc da cam. Năm 1985, nhạc sĩ Thanh Trúc đã viết ca khúc "Vì đâu em chết" đầy khắc khoải: "Ôi đứa em tôi, đứa em cút côi, từ nay không còn nhìn đâu thấy nữa. Ôi đứa em tôi đứa em cút côi, từ nay không còn ca hát nữa. Chúng nó giết em rồi, chúng giết bằng chất độc màu da cam".

Thế nhưng, đáng tiếc thay, lúc đang chín muồi về phong cách sáng tạo, nhạc sĩ Thanh Trúc đột ngột từ giã nhân gian vào mùa hè năm 1986, để lại người vợ trẻ và đứa con trai mới 10 tuổi. Hình ảnh của nhạc sĩ Thanh Trúc nhòa dần trong ký ức nhiều người, nhưng ca khúc của ông vẫn xao xuyến "như hoa phong lan chờ đợi, mưa giókhông phai tàn".

Lê Thiếu Nhơn
.
.