Ngày Thiết thúc nở hoa

Thứ Năm, 06/04/2023, 13:11

Mười Sáu cũng thử một đêm ngủ lại Miếu cô liêu. Một đêm nào đó của năm vừa tròn mười bốn tuổi. Thiên hạ nói trên đỉnh Thất Tượng có cây Thiết thúc cổ, mỗi kì sáu mươi năm mới ra hoa rồi kết trái. Mỗi kì chỉ đươm một hoa, chỉ kết một trái. Hoa Thiết thúc ăn vào sẽ trị được đôi mắt âm dương của Út Lệ khiến Út Lệ trở lại bình thường như bao người Xà Lôn. Hoa Thiết thúc đâm nát và hứng sương sớm rồi đem uống, có thể cãi lão hoàn đồng hay giúp người vừa chết sống lại.

1.

Út Lệ chắc chắn một điều giữa dòng có vùng nước xoáy. Nó cuốn chiếc xuồng quay vòng tròn. Chỉ khi nào ven bờ bên kia hàng ngàn chiếc lá bỗng xoay như bánh xe, ánh xanh màu ngọc bích chòng chọc lao tới vùng nước xoáy thì chiếc xuồng mới chịu nằm yên. Những chiếc lá tròn có nang quy về tâm, mọc um tùm trên con kinh. Những chiếc lá lạ lùng chỉ mình Út Lệ thấy. Chục năm trời, Út Lệ vẫn hay ra mé sàn lãng ngó dòng kinh mỗi bận chiều hôm trời cơi lửa nấu bếp. Ngoại có gọi kiểu gì thì Út Lệ vẫn ngồi thẳng một dáng, xõa mái tóc dài chấm mé sàn, tay xua những chiếc xuồng đang hướng tới giữa dòng. Miệng cố gắng la lớn nhất có thể.

Cũng chục năm trời thiên hạ dọc ngang con kinh đều biết. Mới đầu họ đánh máy đuôi tôm cho xuồng chạy lệch sang một phía tránh vùng nước xoáy. Chừng chạy ngang qua thấy chẳng có luồng xoáy nào thì quay lại chửi rân trời. Chửi riết rồi đâm chán. Chán rồi thì mặc kệ. Nhưng, cái mặc kệ của xứ này là không thèm nói với Út Lệ, họ tụm năm tụm ba đồn thổi đủ trò. Kẻ nói cái đồ điên, người phán mắc đàng dưới. Có bận người ta thêu dệt một câu chuyện ly kì về Út Lệ. Một đồn mười, mười đồn thành trăm. Trong xóm đồn ra chợ. Chợ đồn lên xã. Xã đồn lên huyện. Huyện đồn lên tỉnh. Con kinh không dưng có tên mới. Ngoại ra chợ người ta kéo lại hỏi thăm. Ngoại cười bâng quơ, không nói không rằng. Được thể thiên hạ răm rắp tin lời đồn. Lời đồn luôn có một sức hút kì lạ, lan nhanh hơn gió, cuốn vào xóm giềng, lồng vào những câu chuyện thần bí của xứ này.

Vài lần phía ngoài cổng rào nhà, thiên hạ lấp ló kiếm Út Lệ, hỏi mấy câu trời ơi đất hỡi. Mấy câu thiên địa giấu chặt, phàm phu thường dân làm sao biết, chỉ có người mang cặp mắt âm dương như Út Lệ là thấy được. Hổng tìm nó đi tìm ai ở xứ này. Cái đó trời cho thì phải đi làm phước, chứ nhiều khi nó không chịu làm, thì tích tụ vào người, bị quật lại nên mới ra thế này đó. Mấy bận như vậy, ngoại phải xua tay đuổi về, cũng có khi bực quá thằng Mười Sáu cầm cây chổi từ phía nhà chạy ra chửi thề inh ỏi. Mấy người thập thò bỏ chạy. Nhưng, câu chuyện đôi mắt âm dương thì không có chân nên vẫn cứ đứng im mải miết bên đời Út Lệ.

Thỉnh thoảng, khi Mười Sáu nhìn Út Lệ thở dài, Út Lệ tỉnh rụi, họ không biết thì mình chỉ, họ không nhớ thì mình nhắc. Có gì đâu mà sợ? Cái vùng xoáy đó nó nghiệt lắm! Đất có thổ công, sông có hà bá. Xứ này linh thiêng chứ đâu phải út nói chơi. ''Ừ út không nói chơi, nhưng giờ út theo tui lên xuồng ra chợ Lồng may mấy bộ đồ mới nhen. Út ngoan đi rồi tui dẫn út đi miếu. Muốn đi miếu phải có đồ đẹp. Miếu cúng Phật, xôm tụ lắm đó út''. - Mười Sáu dỗ dành. Út Lệ lấy tay vò vò cái tà áo bà ba rồi gật đầu cái rụp. Ngoại thở dài thườn thượt, tiếng thở như chừng ngao ngán, cũng như mừng rỡ, bởi cuối cùng thì trong nhà ít ra còn có một người khiến Út Lệ nghe lời.

Ngày Thiết thúc nở hoa -0
Minh họa: Đỗ Dũng

Nhưng, Út Lệ vẫn cứ là út Lệ, nay nghe mai chối, đến ngày mốt thì nhất quyết không đi đâu, làm gì. Chỉ duy nhất một điều không cần ai dụ dỗ, cứ chiều là ra sàn lãng đến chừng bên kia con kinh ngàn mắt bánh xe lá hết xanh thì tự động lủi thủi vào chái bếp mà lục cơm ăn. Út Lệ mới ngoài bốn mươi tuổi. Ngoại nói hồi trẻ Út Lệ đẹp nhất Xà Lôn.

2.

Xà Lôn nằm khuất dưới chân núi Thất tượng, quanh năm gió mát, cây cối xanh lành. Đỉnh đồi Thất tượng có cái miếu mà dân xứ này hay gọi Miếu cô liêu. Có lần Mười Sáu hỏi ngoại, sao cái miếu gì tên nghe u tịch đơn lạnh quá chừng. Dân xứ mình cứ ngày rằm, hay lễ Tết cũng đều rồng rắn lên cúng miếu. Mà có đời nào gặp ông từ trông coi miếu. Lạ kì là cái miếu vẫn bông hoa, cây trái cúng dập dìu, đèn đuốc sáng trưng, sân nền sạch trơn. Vậy ai là ông từ? Câu hỏi cứ theo Mười Sáu lúc nhỏ đến lớn. Đến những lúc lang thang trên đỉnh Thất tượng tìm thuốc vẫn chưa lần nào gặp ông từ. Ngoại nói, ông từ coi miếu nhưng chẳng bao giờ ở miếu. Ông từ ở trong cốc. Cốc nhỏ là một hốc đá giữa trùng điệp hốc đá của Thất tượng. Ông từ tu đạo nên lánh đời, hữu duyên lắm mới gặp. Xà Lôn mấy ai gặp được ông từ đâu, ngay ông già bà cả của xứ này.

Mười Sáu cũng thử một đêm ngủ lại Miếu cô liêu. Một đêm nào đó của năm vừa tròn mười bốn tuổi. Thiên hạ nói trên đỉnh Thất Tượng có cây Thiết thúc cổ, mỗi kì sáu mươi năm mới ra hoa rồi kết trái. Mỗi kì chỉ đươm một hoa, chỉ kết một trái. Hoa Thiết thúc ăn vào sẽ trị được đôi mắt âm dương của Út Lệ khiến Út Lệ trở lại bình thường như bao người Xà Lôn. Hoa Thiết thúc đâm nát và hứng sương sớm rồi đem uống, có thể cãi lão hoàn đồng hay giúp người vừa chết sống lại.

Câu chuyện thực hư đó cứ truyền miệng từ đời này sang đời khác. Ai cũng rành rọt. Ai cũng tranh nhau kể về sự mầu nhiệm của loài Thiết thúc cổ mấy trăm năm trên đỉnh Thất Tượng. Nhưng hỏi dân xứ này ai là người được cải lão, ai là người hoàn đồng, ai sống dậy khi hồn đã lìa khỏi xác thì thiên hạ nói ra những cái tên mà bây giờ đã hóa mây về miền cực lạc. Nhưng, Mười Sáu tin thế, tin như tin vào mọi câu chuyện cổ tích đều kết thúc có hậu. Thể nào cũng có thứ trả về cho Út Lệ sự an nhiên bình lặng dẫu có muộn mằn.

Bận đó Mười Sáu cho xuồng tách kinh Xà Lôn rồi chạy ra thị xã. Từ thị xã bắt xe lôi đến chân Thất Tượng. Ông xe lôi một sớm mờ sương nói Mười Sáu gan vậy. Thiết thúc chỉ cho người hữu duyên thấy được. Thứ trái kết tinh từ một vòng quay thời gian đủ đầy mười thiên can và mười hai địa chi. Năm nào cũng vậy, cứ bấc trở dạ phủ lên đồng bưng mấy ngọn gió hiu hắt là lác đác người lên núi tìm. Cũng ngần đó người lủi thủi xuống núi với gương mặt hốc hác và cái lắc đầu trĩu trịt. Là đỉnh Thất Tượng huyền bí, hay lòng người huyền bí. Đời chẳng thể đoán định. Chỉ biết niềm tin luôn cứ bấu víu vào chính bản thân mình bằng sự nhập nhằng ảo thực hư vô. ''Mà nè, nếu muốn lên tới cây Thiết thúc cổ, phải ghé chỗ Miếu cô liêu nhen thằng nhỏ. Có thờ ắt có thiêng, có kiêng ắt có lành. Đốt tám cây nhang thành vòng tròn trước sân miếu rồi hãy đi tiếp lên núi''. Chưa kịp hỏi tại sao thì ông xe lôi thả Mười Sáu xuống. Sương sớm vẫn còn ngái ngủ lên từng cục đất. Mười Sáu nhìn đường lên núi quanh co lắt léo. Hít một hơi dài rồi bắt đầu leo.

Miếu Cô Liêu vẫn u hoài tịch mịch giữa lưng chừng đỉnh Thất Tượng. Mặt trời đã nhô hẳn lên những ngọn cây cổ thụ cao. Càng lên cao, càng vào sâu trong núi thì càng lạnh. Chẳng có cơn gió rừng nào. Chẳng có khói sương mờ ảo nào đó như thiên hạ Xà Lôn vẫn hay đồn thổi về xứ huyền mị. Mười Sáu vẫn cứ theo hướng đường mòn mà đi. Trăm ngàn cái hốc đá ẩn vào núi. Trăm ngàn tán cây che trời. Thoảng khi mới có vài tia nắng len lỏi xuyên tán lá mà hắt vệt dài xuống bước chân Mười Sáu.

Cây Thiết thúc cổ có bộ rễ như trăm ngàn cánh võng đan chi chít vào nhau, nhô lên hẳn mặt đất. Khi đi qua hết đám rừng âm u, bắt đầu thấy ánh sáng, chân bắt đầu tê cứng, sống lưng bắt đầu lạnh, hai vai bắt đầu nặng, sẽ tự khắc thấy Thiết thúc oai vệ to cao ngun ngút tầm mắt đứng chơ vơ một mình một cõi, dựa ngay vào đỉnh núi. Vậy làm sao có hoa Thiết thúc, làm sao có trái Thiết thúc. Cứ đứng dưới bộ rễ đó, khấn thần cây và xòe đôi tay ra đợi. Duyên lành trời đất thấu cảm tự khắc hoa rơi vào tay, trái rơi ngay chân. Chẳng ai biết mình sẽ có được hoa hay trái. Chỉ biết khi chướng tàn là mùa của niềm tin và hy vọng về một sự mầu nhiệm mang tên Thiết thúc.

Mười Sáu nghe vậy, biết vậy và làm theo vậy. Hết đứng rồi nằm. Hết nằm rồi leo lên bộ rễ to bự mà đánh đu. Đói bụng thì lôi mớ bánh mì ra chấm với đường mà mình cẩn thận gói mang theo. Bây giờ là mấy giờ? Mười Sáu chẳng biết. Chỉ biết tà dương bắt đầu khuất núi. Chiều vẳng xa tiếng ang ác của bầy chim mỏi cánh thiên di bay về tổ. Mười Sáu lôi ổ bánh mì thứ hai ra ăn. Cơn khát bắt đầu đến. Chai nước mang theo ban sớm đến giờ không còn một giọt. Mười Sáu ngó quanh quẩn. Đêm bắt đầu bủa vây. Đêm rừng âm trầm tuyền mặc.

3.

Mười Sáu đẻ đúng ngày vong, một đêm giữa giêng trăng tròn vành vạnh soi bóng lòng kinh. Ngoại chạy ra bờ rào nhà la lớn nhờ xóm giềng phụ trợ, chừng một đỗi thì thấy Tư Thiệt dẫn bà mụ Chín chạy qua. Mười hai giờ đêm, tiếng con nít khóc vang trong nhà. Mụ Chín thở nặng nhọc lau mồ hôi lấm tấm ướt trán. ''Thôi coi như tui làm phước vậy, nghèo rớt mồng tơi tiền đâu mà tính. Xong nghen tui dìa. Mà nè, hình như có cái nốt đỏ ngay ngón tay cái của thằng nhỏ. Coi để ý chứ tui thấy là lạ. Nó nhỏ quá tui thấy không rõ, nhưng mấy chục năm đỡ đẻ xứ này, tui nhìn cái gì là ra cái đó. Nó cứ đập vào mắt là lạ sao đó nghen''. Cái chữ là lạ của bà mụ Chín buông lơi thì chân đã bước ra thềm nhà, và đi tuốt luốt không ngoái đầu lại. Tư Thiệt lật bàn tay thằng nhỏ sơ sinh rồi ngó tới ngó lui, có thấy gì đâu, bà mụ Chín nói gì nghe thấy ghê. Con người ta mới đẻ. Ngoại ở lại, ngó Út Lệ nước mắt lăn dài, nghe tiếng khóc the thé của đứa nhỏ. Tiếng khóc cứ vậy mà quẩn quanh căn nhà.

Ngoại có ba người con. Đứa lớn theo cha đi buôn ở Nam Vang. Hồi đó miệt này xuôi ghe xuồng là qua Nam Vang cái một. Cứ lấy lúa gạo đồ đạc bên này chở qua bên kia mua bán. Mua bán năm bảy mùa lớn ròng con nước thì chồng con không về nữa. Tàn những mùa mù u rụng đầy con kinh, ngoại thôi không thèm chờ. Ngoại tự thân ruộng đồng nuôi hai đứa con còn lại. Đứa lớn tự giữ đứa nhỏ. Trời sanh thì trời cũng có cách mà nuôi. Tất cả mọi thứ trong nhà một tay ngoại làm ra. Thoảng khi giữa những đêm muộn mằn hai đứa con nhỏ chui vô mùng ngủ vẫn còn nghe rõ tiếng cái máy thâu thanh bà má dặn tuồng cải lương “Đợi con nước muộn”. Nghe riết thành ra thuộc. Thuộc luôn cái câu mỗi bận buồn buồn bà má hay hát theo cô đào: “Nước rằm chảy thấu Nam Vang. Mù u chín rụng sao chàng bặt tăm”.

Vài người bạn đi buôn nói ngoại nghe chồng mình theo bà nào đó vàng đeo láng lẫy, làm thầu xuồng hàng. Giờ ổng ngon lành, mập mạp, trắng tươi. Còn thằng nhỏ à. Hình như nó được gởi đi học đâu trên thủ đô Nam Vang. Chồng con bà đổi đời rồi, về chi cái miệt đồng bưng mút chỉ cà tha này. Thôi bỏ đi. Xứ này cơ cầu lả lai muốn chết, khổ cực thấu trời! Ngoại đi từ ngoài chợ về mà lòng đựng đầy những câu ca. Xứ này thiệt tình buồn như vọng cổ.

Đó là lần hiếm hoi ngoại kể cho Mười Sáu nghe. Cũng là lần hiếm hoi Mười Sáu thấy ngoại uống rượu khi gặp một ông nào đó ghé nhà. Ông nhà giàu thì phải. Ngoại đuổi Mười Sáu ra vườn để ngoại nói chuyện. Ngoại nói gì đó với ông nhà giàu. Ông nhà giàu tóc lốm đốm bạc. Bận ngoại đứng lên nắm tay ông nhà giàu ra thềm nhà. Ông nhà giàu quỳ xuống khóc. Ngoại quay vào trong. Trước khi rời đi ông nhà giàu lạy ngoại ba lạy. Chiều đó ngoại thượng lên bàn thờ một cái lư hương không. Một góc riêng. Không bài vị hay hình ảnh gì hết. Ngoại thắp nhang. Ngoại uống rượu. Ngoại nằm võng hát câu ca cũ. Út Lệ đứng nhìn mải miết cái lư hương lạ. Gió chảy tràn vào nhà liên tục như sóng. Những đợt sóng mênh mông cõi lòng.

4.

Người Xà Lôn túa nhau đi tìm Út Lệ sau bữa rằm. Anh Ba dẫn một đám người sục sạo khắp Thất Tượng vẫn không thấy. Đứa em gái năm ấy mới tròn mười bảy đi đâu giữa mịt mùng sóng nước đồng bưng, giữa trùng trùng núi rừng sâu cao vời vợi. Xóm giềng nói có khi Út Lệ bị dụ qua Gò, qua Gò là sang Nam Vang. Xứ đó đi dễ khó về. Trai đi mất vợ, gái về cũng bủng beo. Anh Ba thương đứa em gái, quay qua nhìn bà má đã lao đao lận đận một đời. Quảy cái túi, anh Ba xuôi ghe ngược con kinh lên Gò. Bà má già thấp thỏm. Biết đi rồi có về hay lại biền biệt như người xưa. Nhưng, anh Ba về, sau cả tuần lễ mỏi mòn mà vẫn không thấy bóng dáng con em gái. Căn nhà liêu xiêu tiếng khóc rấm rứt của bà má.

Một đêm mưa ngút ngàn. Nước con kinh ngập vỡ đê bao. Anh Ba nghe tiếng thất thanh của đứa em gái vẳng xa trong tai mình. Lội ra mé sàn lãng thấy thấp thoáng bóng xuồng có ngọn đèn dầu đang chấp chới. Anh Ba lao vội ra giữa dòng nước xiết. Nước cuộn tròn, cuộn anh ba xoay vòng rồi mất hút. Mấy ngày sau lũ rút người ta thấy xác anh Ba nương vào gốc lá ngay mé sông bên kia. Cầm chặt trong tay là chiếc nhẫn mù u. Bà má già thấy chiếc nhẫn thẩn thờ. Là chiếc nhẫn mù u của Út Lệ vẫn thường đeo ngay ngón trỏ trái. Qua cơn lũ, tóc bà má già bạc trắng.

Thằng anh nằm xuống nhưng hy vọng về sự sống của đứa em vẫn không thôi nung nấu bà má bôn ba tìm con. Linh tính của người mẹ luôn là thứ trực giác chính xác nhất cho những đứa con. Một đêm cúng miếu, nhóm hát rộn ràng diễn vở "Linh miêu tráo chúa". Lớp lớp người về cúng đang say sưa thì bà má nghe lòng mình thon thót. Tựa hồ như ai mách bảo có điều gì đó. Bà má quay sang nhờ Tư Thiệt gọi thêm một nhóm người cầm đuốc mù u đi ngược ra miếu. Thẳng đường mà đi theo tiếng con tim mình đập thình thịch. Gió đêm thốc tháo mái tóc bạc phơ. Cuối núi, ngay cây cổ thụ Thiết thúc, đoàn người thấy thấp thoáng mái tóc dài rối nùi đang co rúm giữa đám rễ mắc võng. Bất giác có tiếng bà mẹ gọi tên con. Từ mái tóc đen lòa xòa ngẩng đầu lên. Đúng rồi, Út Lệ.

Nhưng Út Lệ không còn là Út Lệ, đôi mắt thất thần, ngây ngô, thân hình có nhiều vết bầm. Út Lệ sợ hết tất cả nhưng chỉ biết chạy đến ôm má và khóc. Bập bẹ chữ má má rồi nấc nghẹn. Út Lệ về, má tắm rửa, chải lại tóc, má nhìn thân thể Út Lệ, nhìn cặp vú căng tròn sừng sững, nhìn cái cổ dài ra và bắt ngấn. Má lấy tay sờ cái bụng Út Lệ rồi khóc.

Út Lệ bắt đầu tỉnh dần, từ từ, biết thắp nhang lên bàn thờ gọi tên anh Ba. Cũng bắt đầu bập bẹ tiếng mưa, lũ, anh Ba. Cứ vậy từ từ tập chữ ngắn thành câu dài. Tới cái câu dài để má nghe hiểu cũng là lúc Út Lệ ra mé sàn lãng ngồi mỗi chiều. Cái bụng to dần. Xóm giềng xì xào cha đứa nhỏ là ai? Chẳng ai biết. Miếu cô liêu giấu trong mình những lời kinh cầu nhưng chưa bao giờ trả lời câu hỏi của bà má già. Cho đến ngày Mười Sáu lớn khôn. Câu chuyện đôi mắt âm dương và đứa con của núi vẫn âm ỉ cháy trong lòng bà má già nay đã làm ngoại.

5.

Mười Sáu chạy về phía miếu khi đêm đen kịt tứ bề. Đêm xuống nhanh và lạnh. Cả một ngày chẳng chờ được hoa Thiết thúc rơi. Thiên hạ dặn phải có lòng, thật thành tâm mà kính cẩn. Mười Sáu tìm đến là vì Út Lệ. Những ẩn ức đau đớn này khi nào mới nguôi ngoai? Đời Út Lệ đã héo mòn thanh tân cũng từ ngọn núi này. Đời Mười Sáu lớn lên trong nghiệt ngã cũng là ngọn núi này. Ngọn núi này phải trả về cho má con Mười Sáu một cuộc đời đã mắc nợ. Mười Sáu chạy vào Miếu cô liêu. Ai đó thắp những ngọn đèn cầy sáng trưng. Miếu ấm hương nhang. Mùi nhang khiến Mười Sáu thư thái. Tựa lưng dưới chân bàn thờ Phật. Tượng Phật bà uy nghiêm ngồi tọa thiền trên đài sen, tay vảy thùy dương liễu, tay còn lại cầm tịnh bình cam lồ. Ngoại hay cúng miếu. Ngoại dạy, Phật bà có thiên biến hồng danh, vạn hóa ứng thân. Nơi nào còn có khổ đau, nơi đó còn có Phật bà. Phật bà độ trì nơi đâu, độ trì những ai, sao ngoại, sao Út Lệ, sao Mười Sáu mãi chẳng được độ? Câu hỏi rơi vào thinh không. Chỉ có gió mãi rít ngoài phía núi. Núi mãi muôn đời không một lời biện giải. Mười Sáu không phải con của núi. Ai cũng có cha mà. Đâu ai từ đất nẻ chui ra, hay từ núi mà tạo thành. Trong cơn mệt lả Mười Sáu co ro thiếp đi.

Mười Sáu thấy mình bay lên thật cao, giữa ngút ngàn tán xanh cổ thụ. Mười Sáu đậu lên đỉnh cây Thiết thúc. Loài cây chẳng có nhánh. Mỗi một lá Thiết thúc như một nhánh dài, mọc quanh thân trụ to bệ vệ. Lá Thiết thúc hình lông chim, thuôn dài từ gốc tới đỉnh lá. Lá non lông mềm xanh biếc. Lá dài lông hóa hai hàng gai xòe ra. Đầu mỗi gai là một chấm đỉnh tròn li ti xanh thẫm nhưng phát quang vào những đêm tối. Thiết thúc đúng sáu chục năm vòng luân xa của thiên can địa chi sẽ ra hoa ngay đỉnh cây. Chỉ một hoa vàng thuỗn dài như trái thơm với nhiều hốc mắt xếp đan xen lẫn nhau. Mười Sáu với tay chụp lấy hoa Thiết thúc. Gai từ trên lá đâm vào tay Mười Sáu. Chỗ đâm nhỏ ti hí như đầu kim hiện lên chấm đỏ. Mười Sáu giựt mạnh, giựt mạnh …thì choàng tỉnh…

Ông xe lôi ngồi phì phèo thuốc, lạnh tanh nhìn thằng nhóc mười bốn tuổi: ''Tưởng mày xuống núi từ chiều. Ai dè mới bi lớn mà gan thấu trời. Dám ở lại tận đêm rồi chui vô miếu ngủ nhờ. Mầy mớ cái gì mà giựt tay tao dữ thần vậy trời''. ''Con mơ thấy mình hái được hoa Thiết thúc''. Gai lá đâm vào tay thành chấm đỏ. Thằng nhỏ mười bốn tuổi xòe bàn tay ra. Ông xe lôi thấy ngay trên tay nó ở ngón cái, có hai đường chỉ tay nhỏ tạo thành con mắt, chính giữa là một chấm đỏ. Ổng nhìn chầm chập thằng nhỏ rồi nhả khói liên tục vào không trung. Khói vo tròn mấy vòng rồi tan vào màn đêm thâm sâu hun hút.

''Mày nghe ai mà đòi lên núi kiếm hoa Thiết thúc''. Thằng nhỏ nghe giọng ông xe lôi đanh lại. Nó lừng khừng rồi kể câu chuyện Út Lệ. Chưa bao giờ nó gọi tiếng má. Ngoại dặn cứ gọi Út Lệ. Nó sanh nhằm ngày vong, ngày không tốt, ngay đúng giờ âm binh hành. Khi nhỏ đã quặt quẹo ốm đau suốt. Thiên hạ nói nó có vân tay mắt quỷ. Hệt như Út Lệ. Vân tay đó là điềm gở. Mấy đứa nhỏ trong xóm không chơi chung. Ngoại muốn giữ lại nuôi phải bồng lên Miếu cô liêu cúng xin. Chẳng biết mắt quỷ là gì, đời con chưa thấy quỷ bao giờ. ''Con ở kinh Bà điên, đó là thiên hạ gọi vậy khi má con cứ chiều chiều ra mé sàn lãng ngó vùng nước xoáy. Con là đứa con của núi, sanh ra khi má con mất tích sau một đêm rằm lên miếu lễ Phật. Tận ba tháng sau người ta mới tìm thấy trong gốc cây Thiết thúc cổ. Con nghe mấy ông bà già Xà Lôn nói chỉ cần kiếm được hoa Thiết thúc về làm thuốc là má sẽ hết bệnh. Cặp mắt con người ta vốn dĩ nhìn chuyện cuộc đời đã là khổ. Giờ mắt âm dương, mắt quỷ gì nữa là hủy hoại cả một đời của con người ta ông ơi''.

Ông xe lôi nghe đầu mình tê buốt, khắp thân thể như có hàng ngàn đầu mũi kim đâm vào. Thể như cái đêm của mười mấy năm trước ông rạo rực khi nhìn thấy con nhỏ mười bảy cúi đầu lạy Phật bà nơi ngôi miếu. Con nhỏ hỏi ông khi đang lau chùi tượng Phật đường lên cây Thiết Thúc. Ông dẫn đi sâu vào rừng, sâu vào cái bản ngã đang trỗi dậy, sâu vào cái bản năng đang sục sôi. Con nhỏ mười bảy quằn quại khóc thét dưới cây Thiết thúc. Khi cơn phun trào của ngọn núi đang tạo vòng xoáy vào thân thể con nhỏ mười bảy tuổi thì một chiếc lá Thiết thúc bay xuống, đập lên tấm lưng trần của ông như trời giáng. Đầu gai nhọn ghim vào da thịt khiến ông tỉnh cơn mê đắm. Ông giấu con nhỏ vào hốc đá mình đang trú ngụ.

Hay như cái buổi đêm ông phát hiện bụng con nhỏ lum lúp, ông quyết đưa con nhỏ về lại mé sàn lãng khi đã thấy ánh mắt ngây dại và lời nói đứt quãng. Bất ngờ giữa dòng thì mưa to, lũ tràn. Giữa thời khắc sinh tử, con nhỏ thất thanh kêu gào. Ông quay đầu xuồng. Ngay cơn chảy xiết vẫn thấy bóng dáng ai đó bị nhấn chìm. Ánh mắt ấy như muôn ngàn mắt quỷ âm ba mãi trong tâm trí ông bấy lâu nay.

Ông xe lôi hay ông từ? Ông là ai? Thằng nhỏ mười bốn tuổi này là ai? Ông đâm đầu chạy về phía núi, bỏ lại thằng nhỏ mười bốn tuổi ngơ ngác gọi. Phía núi vẫn hun hút tối.

6.

Mười Sáu không hề hé môi cho ai nghe chuyện đêm đó ở Miếu cô liêu. Mãi cho đến khi thiên hạ ngoài chợ đồn có người thắt cổ ở ngay góc cây Thiết thúc, đó là ông từ. Ông từ hiền khô hà, ổng chạy xe lôi, ổng trông coi miếu, đến cả trái cây mà ổng còn không lấy về cốc. Mà cốc ổng ở đâu giữa muôn ngàn hốc đá trên núi? Người ta không ai biết. Hay ổng bị cướp? Cũng có thể ổng thất chí mà quyên sinh? Thiên hạ chậc lưỡi xa xót, ông từ trông coi Miếu chết rồi thì sau này ai quét Miếu, ai thắp đèn, những ngọn đèn minh linh để giữ yên bình cho Xà Lôn, những ngọn đèn giữ ấm đất để Thiết thúc biết thời mà ra hoa kết trái. Ai đây?

Mười Sáu về ngồi lại mé sàn lãng cạnh bên Út Lệ. Mắt Út Lệ vẫn hướng về phía con kinh. Dòng nước vẫn bình thản trôi. Chưa một lần nào Mười Sáu thấy có vùng xoáy. Cũng như Xà Lôn chưa bao giờ có người kiếm được hoa trái Thiết thúc. Người ta vẫn cứ nói về Thiết thúc đủ luân xa của vòng thiên can địa chi sẽ ra hoa. Nhưng, xứ này, chưa ai nói về luân xa của vòng đời mình.

Bữa ông nhà giàu ghé qua nhà, tay cầm hủ cốt, tay cầm tấm hình. Mãn tang tía bên đó, con đem tía về xứ. Con xin má cho tía về nhà. Con người ta xong một vòng đời ai cũng muốn nằm với đất quê. Má ơi!

Ngoại chẳng nói chẳng rằng để cái hủ cốt lên bàn thờ. Ngoại đốt tám cây đèn cầy xếp thành vòng tròn ngoài hiên nhà. Út Lệ quì xuống khấn lầm rầm gì đó trong miệng rồi chạy vội vào buồng, thay bộ đồ mới hồi Mười Sáu chở ra chợ mua, nằng nặc đòi lên miếu thắp đèn minh linh. Một ngọn đèn minh linh thắp lên cáo thổ công có người Xà Lôn về với đất. Ngoại giựt mình sực nhớ hôm nay là cúng miếu.

Khi Mười Sáu đến, người ta đã thượng hình ông từ lên thờ. Nườm nượp người quì mọp khấn vái. Người cầu tài người cầu phúc. Út Lệ nhìn chòng chọc vào tấm hình ông từ. Mắt Út Lệ như ngàn chiếc bánh xe có nang quy về tâm xanh màu ngọc bích. Hai hột nước mắt rơi. Mười Sáu lấy tay chùi nó. Nước mắt thấm vào ngón cái, ngay chỗ hai đường chỉ tay ở giữa có chấm đỏ. Ngón cái đau buốt lên như hồi Mười Sáu nằm mơ thấy mình hái được lá Thiết thúc cổ.

Trời chung chiêng giêng hai, hết một năm cũ, đã qua một năm mới. Thiên can hay địa chi đều sẽ đổi. Trong cơn đau buốt Mười Sáu tự hỏi, Luân xa quay người Xà Lôn hay người xứ này tự quay Luân xa. Rồi khi nào Thiết thúc nở hoa?

Truyện ngắn của Tổng Phước Bảo
.
.