Rượu - Sứ giả kết nối!

Thứ Ba, 24/01/2023, 07:00

Hiểu theo lối chiết tự chữ Hán thì chữ “tửu” là chữ hội ý kiêm hình thanh gồm bộ “thủy” nghĩa là nước và chữ “dậu” chỉ những gì liên quan đến rượu. Chữ “dậu” theo nghĩa tượng hình là hình cái bình bên trong chứa rượu quá nửa. Chữ “dậu” có trong mặt trong chữ “tỉnh” (tỉnh táo) và cả trong chữ “túy” (say). Nghĩa là rượu có thể làm người tỉnh táo (nếu uống ít) lại có thể làm người ta say (uống nhiều).

Không hẹn mà gặp, ngạn ngữ phương Tây có câu: “Chén đầu ta uống rượu, chén hai rượu uống rượu, chén ba rượu uống ta”. Chữ “dậu” có cả trong chữ “thù” (nâng chén đáp lại lời mời) và chữ “tạc” (nâng chén mời người)... Các vị tao nhân mặc khách xưa thường mượn rượu để thêm nồng nàn thi hứng, để giao đãi bạn bè hoặc để giải sầu...

image001.jpg -0

Cụ Nguyễn Trãi có câu: “Nhất hồ bạch tửu tiêu trần lự” (Một bầu rượu trắng tiêu tan nỗi lo buồn trần tục). Trong các thư tịch cổ thấy nhiều sách đã nói về rượu. “Lĩnh Nam chích quái” khẳng định từ xa xưa dân ta đã biết “lấy vỏ cây làm áo, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cá tôm làm mắm,...”. Nhiều sách viết rượu có trước thời Hùng Vương, được làm từ gạo. Hầu hết các sách đều thống nhất trong việc sử dụng (mục đích) rượu vào việc tế lễ. Có sách thuật lại truyện Vua Lý Thái Tổ đi tuần đến nơi thấy cảnh sông núi tươi đẹp, cảm xúc, liền lấy rượu khấn rằng: “Nơi này cảnh đẹp, nếu có thần linh hạo khí thì xin nhận rượu của Trẫm”. Quả nhiên đêm ấy vua nằm mộng thấy vị thần xưng vốn là Lý Phục Man... Như vậy, cha ông ta đã biết chế tác rượu, chủ yếu dùng vào việc tế lễ trời đất, tổ tiên và các nghi lễ quan trọng khác.

Thành ngữ Hán Việt “Vô tửu bất thành lễ” (không có rượu không thành lễ) xuất hiện trong văn hóa Đại Việt có lẽ từ thời Nho giáo đã hưng thịnh. Vì nguyên thủy câu này có từ rất lâu bên Trung Hoa cổ đại, trước cả thời Khổng Tử. Dùng rượu vào việc tế lễ, có thể coi câu của Chu Văn Vương là tiêu biểu:“Tế tự thì dùng rượu. Trời xuống mệnh cho dân biết nấu rượu chỉ là dùng vào việc tế tự lớn”.

Có thể xuất phát từ tính chưng cất của rượu chiết xuất từ gạo kết hợp với thứ men lá đặc biệt, mà gạo ngày xưa rất quý, gọi là “ngọc thực”, nên dần dần qua tiếp biến văn hóa, rượu được coi là linh hồn của trời đất vũ trụ, xứng đáng làm sứ giả để “kết nối” các vị thần thánh siêu nhiên với con người trần tục. Có sách còn chỉ ra rượu có đủ cả Tinh - Khí - Thần, là tinh chất từ gạo nếp (tinh), hơi rượu tỏa trong không khí (khí), làm cho thần thái vui vẻ (thần)... Như dòng chảy nhẹ nhàng, sâu lắng, hình tượng rượu ngấm dần vào phong tục rồi biểu hiện ra những nét văn hóa rất sinh động. Trước hết là để cúng ông bà tổ tiên: “Rượu ngon chắt để bàn thờ...”. Rượu thể hiện tấm lòng thành trong sáng, thảo thơm (như rượu) mong muốn tổ tiên thưởng thức thứ lễ vật tinh túy của trời đất mà phù hộ độ trì cho con cháu.

Rượu không thể thiếu trong chuyện cưới hỏi hôn nhân. Cùng với cau trầu, rượu là lễ vật bắt buộc. Có bài ca dao: “Anh có thương em thì lo một buồng cau cho tốt, một hũ rượu cho đầy/ Đặt lên bàn thượng, hạ xuống bàn xây/ Chàng đứng đó, thiếp đứng đây/ Lẽ mô thầy với mẹ lại không kết nghĩa sum vầy cho con?”. Trước khi về nhà chồng, người con gái phải mời rượu cha mẹ đẻ: “Rượu lưu ly chân quỳ tay rót/ Cha mẹ uống rồi dời gót theo anh”. Ở ngoài đời không có loại rượu nào tên “lưu ly”, ở đây hiểu là giờ phút thiêng liêng, cha mẹ uống chén rượu mừng chia tay con thành “gia thất”. Trong lễ hợp cẩn (lễ cuối của đêm tân hôn) hai vợ chồng uống chung một chén rượu đào và ăn chung một đĩa cơm nếp. Rượu đào là rượu ngon, màu hồng. Màu hồng là màu của hôn nhân, hạnh phúc. Ý nghĩa của lễ này cũng dễ hiểu: cầu mong đôi vợ chồng suốt đời hạnh phúc, say nhau như say rượu và dính nhau như dính... cơm nếp!

Rượu không thể thiếu trong ngày Tết. Là thứ để con người gần gũi hơn, vui vẻ, phấn chấn nồng nàn hơn. Tận xa xưa đã có tục lấy rượu là phần thưởng trong các cuộc vui ngày Tết. Theo sách “Tuỳ thư” (trong bộ “Địa lý chí” của Trung Quốc) thì ngoài dùng rượu vào việc tế lễ tổ tiên, người Việt (thời Bắc thuộc) còn dùng vào các trò vui “chơi đu, ném còn, hát múa, kéo co. Bên nào được cuộc thì uống rượu,…”.

Là thứ thiêng liêng, dân dã mà sang trọng, rượu không thể thiếu với tất cả mọi người, không kể sang hèn. Với bậc quân tử thì phải sành “Cầm kì thi họa/tửu”, cùng “bầu rượu túi thơ” để “dọc trời đất dọc ngang ngang dọc” (Nguyễn Công Trứ). Hình tượng “bầu rượu” là có thật, rượu được rót vào vỏ quả bầu khô nhỏ, rất tiện cho việc đeo/mang trên người. “Túi thơ” cũng là hình ảnh thật, tức túi đựng ống quyển để chép văn, làm thơ...

Rượu là hình tượng quen thuộc trong thơ Nguyễn Trãi: “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén”. Uống rượu cũng là uống trăng. Rồi “Túi thơ bầu rượu quản xình xoàng/ Khỏe dụng đầm hâm mấy dặm trường”. Nhờ có “túi thơ bầu rượu” tức nhờ nghệ thuật con người mới thêm ấm áp (đầm hâm), thêm sức lực trên đường đời xa. Không còn là rượu thông thường mà là một ẩn dụ chỉ nghệ thuật, thứ nghệ thuật giúp đời, giúp người. Lại có câu thơ đầy ảo mộng: “Nguyệt mãn Bình Than tửu mãn thuyền” (Trăng chiếu đầy sông Bình Than, rượu chở đầy thuyền). Sông nước hay sông trăng, thuyền rượu hay thuyền trăng? Một cái đẹp thoát tục! Vượt qua thơ của người trần để trở thành thơ của người tiên!?

Trong “Truyện Kiều” thì có cả một “thế giới” rượu có chung đặc điểm là không nhân vật nào “quá chén”, trừ Hồ Tôn Hiến “mặt sắt”. Chỉ là “chén xuân”, “chén hà”, “chén đồng”, “chén mồi”, “chén mừng”, “chén quan hà”, “chén quỳnh”, “chén thề”, “chén vàng”, “chén cúc dở say”, “chén đầy”, “chén vơi”, “chén xuân tàng tàng”... Rượu trong “Truyện Kiều” như chất keo gắn nối và gắn kết các nhân vật, cũng là một phương tiện để thể hiện con người và các mối quan hệ của nhân vật.

Vị quan Doanh điền sứ - nhà thơ ngông Nguyễn Công Trứ say rượu một cách rất “tình”: “Còn trời, còn nước, còn non/ Còn cô bán rượu anh còn say sưa”. Ở thời hiện đại, nhà thơ Trần Huyền Trân mượn rượu tâm sự với Tản Đà, gan ruột, khắc khoải, đau mà nồng: “Rồi lên ta uống với nhau/ Rót đau lòng ấy vào đau lòng này…”.

Như vậy rượu là hình tượng văn hóa tích cực đáng được nghiên cứu, tìm hiểu.

Nhưng viết nhiều hơn lại là sự phê phán cái sự “say rượu”. Ca dao châm biếm nhẹ nhàng mà sâu cay: “Ở đời chẳng biết sợ ai/ Sợ thằng say rượu nói dai tối ngày”. Dân gian răn người ta: “Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa/ Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày”. Trong văn học viết thì thật nhiều với những tấm gương xấu do say rượu dẫn đến hậu quả khôn lường.

r.jpg -0
Người xưa uống rượu làm thơ!

“Đại Việt sử ký toàn thư” chê Hùng Vương say rượu đến nỗi bị mất nước. Vì “không sửa sang võ bị, chỉ ham ăn uống vui chơi”, khi giặc kéo đến “hãy còn say mềm chưa tỉnh”. “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” phê phán Đỗ Thích là kẻ giết vua, lợi dụng “nhà vua đêm ăn yến, say rượu, nằm ở trong sân cung cấm” mà giết đi. Lời phê phán còn hướng đến cả vua không giữ nghiêm kỷ cương. Nhiều sách mỉa mai vua Lý Huệ Tông mắc bệnh tật vì do “uống rượu ngủ li bì đến hôm sau mới tỉnh”. Ở thời Trần, vua Trần Anh Tông từng say rượu xương bồ nên suýt bị Thượng hoàng truất ngôi. Rồi các vua hám rượu như Dương Nhật Lễ “rượu chè dâm dật”. Vua Lê Uy Mục bịlên án nặng nhất. Sách “Toàn thư” phê “Vua nghiện rượu, hiếu sát, hoang dâm,”…

Thời Hồng Đức có tập thơ Nôm “Thập giới cô hồn quốc ngữ văn” (Mười bài văn răn các cô hồn) phê phán những kẻ ăn chơi (đãng tử) đàng điếm vô độ: “Ăn cà cuống lầm phải bọ hung/ Uống rượu thiêu lạt bằng nước lã”. Rượu thiêu là loại rượu ngon, nặng, có thể đốt cháy được, thế mà kẻ “đãng tử” uống như uống nước lã... Câu đầu là sự mỉa kín đáo: vì say sưa nên dốt nát đến mức không phân biệt được “cà cuống”, “bọ hung”...

Các tôn giáo lớn thường cấm rượu. Phật giáo cho rằng rượu là nguyên nhân gây nên nhiều tội lỗi. Ngày hội bóng đá (World Cup) tổ chức tại Qatar vừa rồi cũng cấm tiệt rượu bia vì đạo Hồi cấm rượu. Nhưng chẳng vì thế mà thấy sự cuồng nhiệt kém đi so với các kỳ World Cup trước!

Nhưng ngày nay thì ở nước ta đang có tình trạng báo động: mỗi năm tiêu thụ hàng tỷ lít bia. “Văn hóa rượu bia” đang là một trở lực cho phát triển!

Rượu là hiện tượng văn hóa nên phải điều chỉnh, tác động bằng văn hóa. Mà với văn hóa thì giáo dục bằng cách nêu gương là tốt nhất. Người làm gương trước hết, ở mỗi gia đình là các bậc phụ huynh; ở cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp là vị đứng đầu...

Nguyễn Thanh
.
.