Những lối tìm về cá tính H’Mông

Chủ Nhật, 28/11/2021, 08:24

Nếu muốn cảm nhận sự mộng mơ cá tính H’Mông, cần đến “những lối tìm về” khác, những lối tìm về của tưởng tượng và sáng tạo văn chương. Cá nhân tôi đã thấy điều đó từ một số tiểu thuyết của hai nhà văn gốc miền xuôi nhưng chuyên viết về miền núi: Đoàn Hữu Nam và Đỗ Bích Thúy...

Năm 2014, sau một thời gian liên tục thực hiện những chuyến nghiên cứu thực địa dài ngày tại các bản làng người H’Mông ở Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên... nhà “dân tộc học tự do” trẻ tuổi Nguyễn Mạnh Tiến đã cho xuất bản cuốn sách biên khảo đầu tiên của mình: “Những đỉnh núi du ca, một lối tìm về cá tính H’Mông” (NXB Thế giới & Song Thuy Bookstore, 2014). Lẽ dĩ nhiên, “Những đỉnh núi du ca” của Nguyễn Mạnh Tiến chỉ là “một lối tìm về cá tính H’Mông” trong số những lối tìm về khả thể.

Nó mang đặc trưng của tư duy nghiên cứu, nghĩa là bám sát và bám chắc vào những dữ kiện dân tộc học. Nó chủ ở lý trí chứ không chủ ở mộng mơ. Do vậy, nếu muốn cảm nhận sự mộng mơ cá tính H’Mông, cần đến “những lối tìm về” khác, những lối tìm về của tưởng tượng và sáng tạo văn chương. Cá nhân tôi đã thấy điều đó từ một số tiểu thuyết của hai nhà văn gốc miền xuôi nhưng chuyên viết về miền núi: Đoàn Hữu Nam và Đỗ Bích Thúy.

Những lối tìm về cá tính H’Mông -0
Sách “Những đỉnh núi du ca, một lối tìm về cá tính H’Mông” của Nguyễn Mạnh Tiến.

Nhà văn Đoàn Hữu Nam, sau một loạt tiểu thuyết về đất và người vùng biên ải Lào Cai: “Tình rừng” (2000), “Dốc người” (2002), “Trên đỉnh đèo giông bão” (2004) và “Thổ phỉ” (2011), đã xuất hiện trở lại với thể loại tiểu thuyết bằng tác phẩm “Rễ người” (NXB Công an nhân dân, 2020) và giành giải A cuộc thi viết tiểu thuyết, truyện ngắn, ký về đề tài “Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống” lần thứ IV. Đây là truyện kể về một trưởng bản người Mông sống trên dãy Hoàng Liên Sơn, tên Phù, và nó được bắt đầu bằng một thời gian rất cụ thể: “Ngày 20 tháng 4 năm 1987, tức ngày Kỷ Hợi, tháng Giáp Thìn, năm Đinh Mão. Trưởng bản Hoàng Thu Giàng Seo Phù bị nạn”.

Cái nạn ấy là việc Phù vô ý đánh chết người. Sợ bị trả thù và sợ bị tù đày, Phù chạy trốn, sống chui nhủi trong rừng sâu đến hơn một năm. Sự kiện này khiến cho truyện kể có thể phân thành hai mạch. Mạch thứ nhất, là cuộc trở về với thiên nhiên hoang dã của một con người (dẫu sao cũng) thuộc thế giới hiện đại. Anh ta phải tự mình, chỉ một mình mình thôi, tìm hiểu môi trường sống đầy chất nguyên thủy vốn là quê hương đích thực của loài người; tìm hiểu để nương nhờ sự bao dung của nó, để chống chọi với cái khắc nghiệt của nó, tóm lại để có cái ăn và chỗ trú thân an toàn đặng bảo toàn mạng sống. Mạch thứ hai, giữ vai trò chủ lưu, là cuộc trở về bằng và trong ký ức của bản thân Phù, với gia đình, với làng bản, với dòng họ, và với cả lịch sử tộc người.

Những gương mặt thân và sơ, những hình ảnh gần gũi và xa xôi, những câu chuyện mới đây và những câu chuyện từ ngái xa mờ mịt... tất cả luôn hiện diện trong Phù, lúc mải miết tìm kiếm cái ăn cũng như khi ngủ nghỉ, lúc tỉnh thức và cả trong những miên man mê sốt nơi hang đá giữa rừng sâu. Xuyên qua tất cả những gương mặt, hình ảnh, câu chuyện ấy, là sự thường trực ý thức của “một thằng trai Mông đích thực”, “một người đàn ông Mông chân chính” về tộc người của mình, từ khởi nguồn “người Mèo/ Miêu ở đất Quý Châu” bị Hán tộc chiếm đất, chém giết, phải làm những hành trình chạy nạn đầy chết chóc kinh hoàng, rồi mới lánh sang được và yên thân trên đất Việt. Những từ khóa “tâm thức lưu vong”, “tâm thức di dân” và “ám ảnh Hán” được biểu đạt rất rõ trong những lớp hồi cố của nhân vật trưởng bản Phù.

Chúng được nhấn khá đậm ở ký ức về chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979, khi người cha yêu kính của Phù bị lính Trung Quốc giết chết. Chúng trở nên đầy cảm động ở cảnh các dòng họ người Mông gặp nhau và cùng nhau thực hiện những nghi thức tế lễ linh thiêng trong một cơn cuồng phong sậu vũ kỳ lạ. Chính những lớp hồi ức đó đã lên tiếng thúc gọi, kéo Phù ra khỏi nỗi sợ bị trả thù, bị tù đày khiến Phù quyết tâm tìm đường trở về với gia đình làng bản. Như thế, cái “rễ người” ở đây, trong tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam, không chỉ là cái rễ cắm vào truyền thống và lịch sử tộc người, mà còn mang ý nghĩa của cái rễ cắm rất sâu vào đất cát quê hương thứ hai của một tộc người có nguồn gốc di dân và làm thành một nét cá tính của tộc người ấy: người Mèo/ Mông/ H’Mông.

Trước tiểu thuyết “Rễ người” của Đoàn Hữu Nam, nhà văn Đỗ Bích Thúy cũng đã có bốn tiểu thuyết “viết miền núi”, là “Bóng của cây sồi”, “Cánh chim kiêu hãnh”, “Chúa đất” và “Lặng yên dưới vực sâu”. Sau đó, chị lại ra tiếp một tiểu thuyết “viết miền núi” nữa, có tên “Người yêu ơi”. Tôi đặc biệt chú ý đến tiểu thuyết “Chúa đất” (NXB Phụ Nữ, 2015), bởi đó là “một lối tìm về cá tính H’Mông” mang dấu vết rất riêng, và khác, của Đỗ Bích Thúy.

Những lối tìm về cá tính H’Mông -0
Tiểu thuyết “Chúa đất” của Đỗ Bích Thuý.

Thứ nhất, truyền thuyết không nhắc đến nhân vật bà Cả, chính thất của Sùng Chúa Đà, nhưng đó lại là nhân vật được Đỗ Bích Thúy mô tả trong tác phẩm với tràn đầy thương cảm: người đàn bà Mông ấy như là cái bóng/ nô lệ/ con chó già của chúa đất, coi chúa đất như là toàn bộ lý lẽ cho sự tồn tại của mình nên khi bị chúa đất đuổi đi, bà đã tìm đến cái chết bằng cách trầm mình trong vụng nước sâu. Thứ hai, vai chính trong tác phẩm không phải Sùng Chúa Đà với cái cột đá hành quyết kinh hoàng của ông ta. Có chăng, nó chỉ biểu đạt sức mạnh của một thiết chế tự trị tộc người từng có lịch sử lâu dài ở miền núi cao phía Bắc, ở đó quyền lực của thủ lĩnh một vùng chủ yếu được đo bằng khối lượng thuốc phiện, ruộng nương, trâu ngựa, bạc nén, kẻ ăn người làm mà ông ta sở hữu, cùng nỗi khiếp nhược của người dân dưới uy thế của ông ta. Chúa đất cũng giống như chúa Trời một cõi vậy.

Tuy nhiên vai chính thực sự trong tiểu thuyết “Chúa đất” lại là bà vợ thứ tư của chúa đất, người có cái tên cha sinh mẹ đẻ là Vàng Chở. Vàng Chở là một thiếu phụ Mông xinh đẹp, ưa làm đỏm, luôn tự ý thức về nhan sắc của mình, luôn khao khát được thỏa mãn những ham muốn yêu đương, cả về tinh thần và xác thịt. Khi chúa đất Sùng Chúa Đà không đáp ứng được những ham muốn ấy, Vàng Chở bắt nhân tình với Lù Mìn Sáng, thằng chăn ngựa trong nhà chúa đất, mặc cho sự thể là so với cô thì Lù Mìn Sáng “chỉ như con sâu đậu trên bông anh túc”, và hơn thế nữa, mặc cho đòn trừng phạt kinh hoàng có thể ập xuống bất cứ lúc nào nếu chúa đất phát hiện cô phản bội. Thực tế đã xảy ra đúng như thế. Và trong lúc Lù Mìn Sáng hết tìm cách bỏ trốn đến khóc lóc, kêu gào, van xin khi bị bắt rồi bị chịu nhục hình treo người, thì Vàng Chở vẫn thản nhiên ở lại, thản nhiên chấp nhận số phận tàn khốc của mình, không nuối tiếc, không ân hận.

Trên cột đá treo người của chúa đất, Vàng Chở, bông hoa anh túc đẹp nhất của vùng Đường Thượng ấy chỉ chảy nước mắt lúc lâm chung: “Chảy vì tiếc cho thân thể đẹp đẽ của mình có lúc phải làm mồi cho bọn quạ đen bẩn thỉu”. Có thể nói, cái tư thế và tâm thế ấy của nhân vật Vàng Chở chính là sự biểu đạt tuyệt vời cho sự khao khát tự do và tinh thần nổi loạn trong cá tính H’Mông. Vàng Chở khao khát được là chính mình, khao khát không để phí thân thể đẹp đẽ của mình trong bóng tối của sự bất lực hay lãnh cảm, nói cách khác, cô khao khát được sống đến cùng trong ham muốn tình yêu và tình dục.

Sau “Chúa đất”, ở hai tiểu thuyết “Lặng yên dưới vực sâu” và “Người yêu ơi” (NXB Văn học & Cty Liên Việt, 2021), cái “gen Vàng Chở” vẫn được Đỗ Bích Thúy lặp lại trong một số nhân vật nữ người Mông của mình, tuy nhiên, trong một khung khổ thời gian khác. Không còn là xã hội người Mông trong truyền thuyết, thời của các thổ ty quyền thế nữa, mà là xã hội người Mông bây giờ, khi miền núi đang hăm hở phát triển để “tiến kịp miền xuôi”, khi các thiếu nữ Mông đã biết nhuộm tóc nâu tóc vàng, mặc áo pull quần jeans, và mắt đã rất quen với ánh sáng của màn hình điện thoại di động... thì cái “gen Vàng Chở” ấy vẫn âm thầm chảy, đôi khi nó bộc phát thật quyết liệt. Lẽ dĩ nhiên, các tiểu thuyết gia Đoàn Hữu Nam và Đỗ Bích Thúy hoàn toàn có thể xây dựng những hình dung văn chương của mình về cá tính tộc người mà không cần biết đến những khái quát của nhà dân tộc học như Nguyễn Mạnh Tiến.

Nhưng sự thật là, các dữ kiện dân tộc học và các dữ kiện văn chương cũng đều từ đó: người Mèo/ Mông/ Hmong, mà ra. Vì thế, với những lối tìm về cá tính H’Mông càng đa dạng, ta càng có dịp hiểu thêm, nhiều và sâu hơn về tộc người này, một tộc người đã từng là chủ nhân đích thực, đầy quyền lực trên những chóp núi bốn mùa sương giăng mây phủ...

Hoài Nam
.
.