Cái chữ Nôm Dao của thầy Tẩn Vần Siệu

Thứ Ba, 12/07/2022, 10:45

"…Tích đức nhiều phúc, tích ác lắm họa/ Đừng tức chuyện không đâu, trời có lúc xế bóng/ Của đến bất nghĩa, ra đi dễ dàng…"  -  Điềm đạm, khúc chiết, "ông thầy" Tẩn Vần Siệu thong thả mở đầu câu chuyện -  "Đấy là một trong những trăm ngàn lời răn dạy của tổ tiên người Dao chúng tôi được ghi chép trong sách đạo lý dành cho con cháu muôn đời!".

Tôi còn chưa kịp có phản ứng gì thì, Tẩn Vần Siệu, người mà bà con dân tộc Dao thôn Tà Chải, xã Tả Phìn, thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai vẫn trân trọng gọi là "thầy giáo" thủ thỉ lên tiếng kể câu chuyện về cuộc đời mình. Anh Siệu bảo, mình đã từng có những năm tháng tuổi trẻ vô cùng sôi nổi. 

Tẩn Vần Siệu chưa hề mơ rằng một ngày nào đó sẽ làm cái việc "gõ đầu trẻ". Nhưng anh khát khao được trao truyền những bài học làm người tới mọi lớp trẻ người Dao thông qua những cuốn sách đạo lý mà tổ tiên của mình truyền dạy. Bởi khát vọng đó, Tẩn Vần Siệu tìm đến với lớp học tiếng Nôm Dao cổ từ cái lúc còn "chưa biết thế nào là đàn ông".

ngoài giờ dạy học, thày giáo tẩn văn siệu dành phần lớn thời gian sưu tầm, lưu giữ,...những cuốn sách dao cổ..jpg -0
Ngoài giờ dạy học, thầy giáo Tẩn Vần Siệu dành phần lớn thời gian sưu tầm, lưu giữ,... những cuốn sách Dao cổ.

15 năm trời miệt mài đèn sách học cái chữ của cha ông để lại, Tẩn Vần Siệu háo hức chuẩn bị cho lễ cấp sắc để làm thầy thiên hạ. Anh cảm giác rất rõ bàn tay mình sắp chạm vào giấc mơ ngày nào. "Phúc bất trùng lai. Họa vô đơn chí!". Một biến cố lớn đầy bất ngờ đã giáng xuống đầu Tẩn Vần Siệu.

Cú tai nạn khủng khiếp ấy đã khiến cho Tẩn Vần Siệu bị cụt một bên tay. Và hỏng một con mắt. Tẩn Vần Siệu cảm thấy cánh cửa cuộc đời đóng kín lại, chôn vùi vĩnh viễn mọi khát vọng nhân văn. Anh tự "cầm tù" mình trong ngôi nhà chật hẹp, tù túng.

Sau bao ngày ủ rũ vì cái cảm giác cuộc đời đã chạm đích cuối con đường hầm tăm tối, một đêm rất dài nọ, Tẩn Vần Siệu bỗng hốt hoảng giật mình tỉnh thức ra cái điều này: Lâu nay mình đã buông bỏ số phận một cách hèn nhát. Bản chất truyền thống của người Dao không bao giờ như vậy.

Mình là người tàn tật đấy, nhưng nhất định không thể trở thành một thứ "của nợ" của vợ con. May mắn hơn rất nhiều người trong cộng động người Dao khi mình vẫn còn một bàn tay để cầm bút; một con mắt để nhìn cuộc đời sáng -  tối. Bởi thế, nhất định không thể trở thành một thứ phế tích vô dụng được.

Vào đúng cái thời khắc chuyển giao giữa bóng tối và ánh sáng đêm hôm đó, Tẩn Vần Siệu đã thề với lòng mình như thế, ấy vậy! Đấy cũng chính là giờ phút thiêng liêng khi anh nhớ tới các thế hệ trẻ em người Dao. Nếu con em người Dao không được học chữ Nôm Dao cổ thì tiếng của cha ông sẽ dần mất đi. Không còn chữ Nôm Dao cổ thì người Dao chả còn là chính mình nữa.

Dạy chữ Nôm Dao cổ thì phải mở lớp tại gia thôi. Và thầy phải nuôi trò. Sáng ấy, khi con gà vừa dứt nhịp báo thức cuối cùng trong đêm, Tẩn Vần Siệu háo hức đánh thức vợ con. Anh phấn khích đem cái ý tưởng mở lớp dạy chữ Nôm Dao cổ "trình bày" với họ. Nhưng Tẩn Vần Siệu không nhận được sự đồng thuận của vợ con. 

Gia cảnh Tẩn Vần Siệu đâu có được như người ta. Quanh năm túng bấn bần hàn, chưa ăn bữa trưa đã bấn loạn lo bữa tối thì lấy gì mà nuôi đám học trò đang tuổi ăn tuổi lớn. Nhà cửa rách nát, chật hẹp lấy đâu ra chỗ kê bàn đặt ghế cho bọn trẻ học hành. Lại còn chỗ ăn, chỗ ngủ nữa chứ.

Muốn đọc thông viết thạo Nôm Dao cổ mỗi học trò ít nhất  phải theo học ba năm trời ròng rã. Chỉ khi ấy, học trò may ra mới có thể nhận được mặt con chữ, đọc thuộc lòng, hiểu về đạo lý làm người. Phải tới năm cuối trò mới được dạy các bài cúng, bài hát Dao cổ. Và cách thức tổ chức các nghi lễ như lễ cấp sắc, lễ cúng Tết, ngày rằm… Không nuôi nổi trò, "ông thầy" Tẩn Vần Siệu còn mặt mũi nào nhìn cha mẹ chúng?

"Lực bất tòng tâm!". Vợ con có cái lý của họ. Nhưng Tẩn Vần Siệu không thôi từ bỏ giấc mơ. Anh nhẫn nại thuyết phục vợ con. Và một ngày kia, Tẩn Vần Siệu có được điều mình mong muốn: vợ con ủng hộ ý tưởng mở lớp dạy chữ Nôm Dao cổ trong hoàn cảnh đời sống hằng ngày luôn phải "giật gấu vá vai… truyền thống".

lớp học miễn phí của thày tẩn văn siệu.jpg -0
Lớp học miễn phí của thầy Tẩn Vần Siệu.

Cậu con trai cả của Tẩn Vần Siệu hăm hở vác dao vào rừng tìm kiếm cây que để có bàn ghế cho những đứa học trò tương lai. Và cả chỗ ăn chỗ ngủ của chúng nữa. Còn Tẩn Vần Siệu phấn chấn thực hiện cuộc chinh phục mới. Anh đôn đáo lặn lội tới tất cả những bản người Dao trong huyện, tỉnh. Rồi các địa phương lân cận năn nỉ thuyết phục các bậc cha mẹ cho con em tới học cái chữ Nôm Dao cổ.

Cái sự ấy còn khó hơn vạn lần việc vượt qua hàng trăm đỉnh Phan Xi Phăng. Nhưng Tẩn Vần Siệu không nản lòng. Rồi thì cũng tới lúc không ít người Dao bản gần, huyện xa hiểu được cái chữ TÂM của Tẩn Vần Siệu trước sự tồn tại, phát triển của chữ Nôm Dao cổ. Người ta hoan hỉ mở cánh cửa khép kín lâu nay mỗi khi thấy bóng dáng Tẩn Vần Siệu xuất hiện trong bản mời anh vào nhà. 

Đứa trẻ đầu tiên rụt rè theo chân Tẩn Vần Siệu vượt đường xa về nhà anh. Rồi đứa trẻ thứ hai; thứ ba,…và thứ 20 lần lượt tự nguyện học chữ Nôm Dao cổ. Anh con trai cả  "vô tư" làm người trợ giảng của cha, cho dù miếng cơm manh áo là nỗi lo thường trực của bản thân.

Từ cái "mốc lịch sử" 2003 ấy tới nay, lớp học của Tẩn Vần Siệu liên tục giữ sĩ số gần 50 cô cậu học trò. Anh vừa làm thầy vừa làm một người cha thân thiện, mực thước của  đám trò ấy. Còn người vợ tần tảo thảo hiền của Tẩn Vần Siệu quanh năm đầu tắt mặt tối với hàng núi lo âu xoay xỏa cái ăn, giấc ngủ cho đám học trò, ấy thế!

*   

Anh Tẩn Vần Siệu kể, từ thời "ngày xửa… ngày xưa", người Dao đã không bao giờ cho con gái của mình được học cái chữ Nôm Dao cổ. Người ta mặc định thế này: đàn bà con gái mà tới lớp thì các bài học về cúng lễ sẽ không bao giờ linh nghiệm. Nhưng "ông thầy" Tẩn Vần Siệu lại có quan niệm hoàn toàn khác với nếp nghĩ truyền thống ấy.

Luôn đau đáu với khát vọng phải giữ gìn, phát triển cho bằng được vốn văn hóa cổ truyền của cha ông, Tẩn Vần Siệu nuôi dưỡng ước mơ: phải xóa bỏ hủ tục lạc hậu đó. Nam nữ bình đẳng, con gái Dao nhất định phải được học chữ Nôm cổ. Có học thì người ta mới có cơ hội nuôi mầm văn hóa, đạo lý giáo dưỡng thâm sâu cổ kính. Nhưng cũng rất hiện đại mà cha ông truyền lại để hướng con cháu mình biết sống thế nào là tử tế, có ích cho gia đình, cộng đồng.

Ngoài các buổi lên lớp tại gia, thầy Siệu bắt đầu những cuộc hành trình mới. Cơm đùm cơm nắm, tay nải khoác vai, Tẩn Vần Siệu lọ mọ tìm đến các bản, xã tại huyện Sa Pa. Chẳng ngại đường đèo đường núi, sông suối cách trở, ông thầy ấy còn sang tận Lai Châu; Yên Bái,… tìm gặp Trưởng các dòng họ người Dao thuyết phục họ cho những đứa cháu gái tới lớp học của mình.

Sẽ chẳng thể có bút lực nào lột tả hết nỗi vất vả của thầy Siệu trong việc đó đâu. Đã tưởng Tẩn Vần Siệu phải bỏ cuộc. Nhưng không, vào một ngày đẹp trời của cái năm 2015 ấy, Tẩn Mẩy Chiệp cô bé đầu tiên góp mặt vào lớp học của Tẩn Vần Siệu. Nay thì Chiệp đã theo lớp được mấy mùa hè cùng với rất nhiều bạn gái khác, vậy đấy!

*

"Thấy bảo ngoài việc dạy chữ Nôm Dao cổ cho học sinh, anh còn miệt mài sưu tầm những câu dân ca bằng chữ Dao cổ đồng thời dịch sang tiếng phổ thông? Và đã cho ra mắt những cuốn sách rất có giá trị?" -  Tôi dạm hỏi Tẩn Vần Siệu. "Những bài dân ca cổ Nôm Dao là kho tàng văn hóa, dạy cách làm người tốt!" -  Tẩn Vần Siệu chợt phấn khích lạ thường - "Không những thế, nó còn thể hiện các nghi lễ thờ cúng tổ tiên của người Dao. Phải lưu giữ chúng lại cho các thế hệ sau này chứ!".

"Vừa làm thầy vừa tích cực sưu tầm, biên soạn những cuốn sách truyền dạy chữ Nôm Dao cổ có lúc nào anh cảm thấy mệt mỏi không?". Sau cái cười thuần khiết, Tẩn Vần Siệu trải lòng: "Mình chỉ thấy vui thôi mà. Mong sao ông trời ban cho thật nhiều sức khỏe để mình tiếp tục cho ra đời những cuốn sách Nôm Dao cổ có ý nghĩa. Và nhất là mở được thật nhiều lớp học nữa. Càng nhiều học trò tìm tới mình thì càng có lắm người thông thạo cái chữ của ông bà ngày xưa đấy. Như thế thì chữ Nôm Dao cổ cũng không bao giờ bị mất đi. Vì nó được truyền từ người này sang người kia. Từ lớp cháu con này tới thế hệ đi sau mà!".

Ôi, thì ra việc mở lớp trao truyền chữ Nôm Dao cổ của Tẩn Vần Siệu chính là cái cách ông thầy này lo bảo tồn, phát triển vốn di sản văn hóa phi vật thể của tổ tiên người Dao. Mà có vẻ như phương pháp của Tẩn Vần Siệu rất đáng được đúc kết thành bài học để có thêm kinh nghiệm trong việc bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Vậy chăng?

Lê Công Hội
.
.