Nhà thơ Lâu Văn Mua - Bụng đói lòng no

Thứ Sáu, 19/12/2025, 20:09

“Người Mông chúng tôi quen với nương ngô, bậc đá, với tiếng khèn gọi bạn tình đêm hội, với bát rượu ngô say men người. Cuộc sống còn nhiều gian khó, cái “bụng đói” vẫn luôn hiện hữu trong từng bữa ăn đạm bạc, trong nỗi nhọc nhằn mưu sinh. Nhưng từ đó, cái “lòng no” mới tỏa sáng: No tình thương, sự sẻ chia, lòng tự trọng và niềm kiêu hãnh làm người”.

Năm 2025 này, nhà thơ trẻ Lâu Văn Mua trình làng 2 tập thơ: “Bụng đói lòng no” và “Nhặt xác em chất chồng bảo tàng”. Cả hai tập đều do NXB Hội Nhà văn ấn hành. Trước đó, năm 2017, Lâu Văn Mua đã ra mắt tập thơ đầu tay “Tôi bay vào mắt em”, NXB Văn học.

Một giọng thơ trẻ trung, táo tợn mà đầy chất Mông

Tôi biết nhà thơ trẻ Lâu Văn Mua người dân tộc Mông rất tình cờ. Vào dịp Tạp chí Xứ Thanh tổ chức gặp mặt cộng tác viên. Lâu Văn Mua đọc thơ như một cách để giới thiệu về mình: “Giống như một chiếc váy bướm/ một điệu nhảy xung quanh/ chu vi của ngọn lửa ngọn đuốc/ như trên phụ đề/ tại matinees nước ngoài, đôi mắt của tôi/ trên của em là mê/ như van nài violin khóc/ giọng nói của em tìm thấy con đường/ để tâm hồn sâu sắc nhất của tôi/ như crème brulee kéo dài/ trên lưỡi của tôi, tôi muốn/ hương vị nhiều hơn của những nụ hôn của em/ …Và tình yêu của em giống như/ mềm như lụa/ đỏ trên hoa hồng/ và ngọt ngào/ là vĩnh cửu/ khi trái tim tôi thổn thức” (Tôi bay vào mắt em).

untitled-1.jpg -0
Nhà thơ Lâu Văn Mua.

Xưa nay hễ có tác giả thơ nào là người dân tộc thiểu số thì điều dĩ nhiên là thơ của họ đều in đậm phong cách dân tộc cùng dấu ấn miền núi? Đọc thơ của Lâu Văn Mua lại khác, ngoài nét trẻ trung, sự mạnh bạo và khá thoáng đạt về ngôn từ ra, dường như còn thấy lấp ló đâu đó hình như là một ý nghĩ kiểu “nổi loạn” của tác giả là muốn “thoát” khỏi cái “khuôn khổ dân tộc và miền núi” xưa nay.

Thơ Lâu Văn Mua đã tự do hơn trong truyền tải thông điệp và cũng tự do hơn bởi những suy nghĩ chỉ có ở những người trẻ tuổi. “Trong vòng tay của em, một thế giới của ân sủng/ tôi biết rằng tôi đã tìm thấy vị trí của tôi/ nụ cười tuyệt vời của em, âm thanh giọng nói của em/ nó được hoàn toàn rõ ràng, tôi không có sự lựa chọn” (Rơi).

Sinh năm 1992, quê ở bản Pù Toong, xã Pù Nhi, tận miền Tây tỉnh Thanh Hóa. Lâu Văn Mua con trai út trong một gia đình người Mông có tới 10 người con, sau khi tốt nghiệp Đại học Văn hóa thể thao và du lịch Thanh Hóa, khoa Văn hóa Thông tin, cậu quyết định trở về quê để…. sáng tác tự do.

Thực ra thì mấy năm trọ học ở thành phố Thanh Hóa cậu sinh viên Lâu Văn Mua đã kịp có cho mình một “gia tài văn chương” nho nhỏ. Trong đám sinh viên trẻ tỉnh Thanh đã “nổi lên” cây bút thơ Lâu Văn Mua. Cậu đã trình làng báo văn nghệ tỉnh nhà, ra mắt báo văn nghệ tỉnh bạn như: Lạng Sơn, Hải Phòng, Nam Định (cũ) và tận thành phố Hồ Chí Minh. Giọng thơ Lâu Văn Mua “là lạ” nên giành được sự quan tâm của các báo. Tạp chí Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam cũng nhiều lần đăng thơ của Mua.

Còn tôi, tôi rất bất ngờ, thơ của Lâu Văn Mua chân chất mà lại táo bạo. Chân thành mà lại ngân nga: “Tay anh lúng túng/ nhưng trong đó có cả sự nâng niu/ như chạm vào điều quý giá nhất/ một bí mật anh chưa từng biết trọn vẹn/ Chiếc váy phủ lên em/ như một tấm áo choàng của những giấc mơ/ làm em đẹp hơn cả ngàn câu chữ/ Anh mặc váy cho em/ như vẽ một bức tranh/ để từng nếp vải ôm lấy cơ thể/ nhẹ nhàng như một làn gió xuân” (Mặc váy cho em).

Lâu Văn Mua thật thà cho hay anh đến với thơ chỉ vì một lẽ là ở Thanh Hóa hiện nay chưa có một ai là người dân tộc Mông làm thơ cả, khi mà người Mông ở các tỉnh khác như Lào Cai chẳng hạn đều có những nhà thơ, nhà văn làm rạng danh quê hương làng bản của họ.

Hơn nữa việc nghiên cứu văn hóa dân tộc Mông Thanh Hóa lại đang khuyết đang trống nên cậu rất mong muốn làm công việc đó. Hơn hai trăm năm định cư trên đất Xứ Thanh, hiện người Mông Thanh Hóa sống ổn định ở 26 bản. Huyện Mường Lát cũ có số người Mông sống đông nhất. Đấy cũng là thuận lợi để việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mông ở Thanh Hóa được khai triển.

Một tư duy thơ đậm tính triết lý

Ngồi nói chuyện với tôi, cây bút thơ trẻ Lâu Văn Mua không ngại ngần gật đầu khi tôi cười nói đùa “Đúng là cái lý người Mông” và động viên cậu “Tương lai gần sẽ có nhà thơ kiêm nhà nghiên cứu văn hóa người Mông tên là Lâu Văn Mua”.

Lâu Văn Mua không phản bác lời tôi nói, anh trả lời bằng câu thơ: “Bụng đói rau cũng ngọt/ lòng no, của quý hóa thừa/ người nghèo cơm trắng là thơm/ kẻ giàu, cao lương cũng nhạt”. Với thơ, Lâu Văn Mua dường như gửi vào đó “triết lý sống” của mình, “triết lý sống” của người Mông. “Chim trời ăn hạt trời ban/ người muốn sống, đừng quên nương đất/ được no, đừng khinh kẻ khổ/ được giàu, đừng quên ngày nghèo” (Bụng đói lòng no).

Đúng như nhà thơ trẻ Lâu Văn Mua đã tâm sự: “Tôi mong rằng, qua từng câu chữ, người đọc sẽ cảm nhận được hơi thở của núi rừng, nỗi khổ nhọc mà thanh cao, và hơn hết là sức sống bền bỉ, dẻo dai của một dân tộc biết giữ gìn phong tục, gìn giữ lòng người trong sáng trước bao đổi thay”.

Ở bài thơ “Nhen lửa”, nhà thơ trẻ Lâu Văn Mua đã viết: “Em về/ như một tia nắng muộn. Lọt qua khe trời ảm đạm/ Lòng anh/ tro tàn đã nguội/ ngỡ chẳng còn gì để cháy/ Nhưng bàn tay em/ nhẹ nhàng như ngọn gió/ khuấy động những tàn than/ Ánh mắt em/ như một que diêm/ lóe lên trong khoảng không lạnh lẽo/ Lửa bừng cháy”.

untitled-2.jpg -1
Bìa một tác phẩm của nhà thơ Lâu Văn Mua.

Tư duy triết lý là ở chỗ đó, một khi có niềm tin và có tình yêu thương thì “cuộc đời mới” sẽ dâng hiến những gì từ điều tưởng chừng đã nguội tàn. Sự sống luôn đặt ra những mong ước, những mong ước giúp cho con người “hồi sinh” từ “đống tro tàn”. “Ngày sa tàn, mặt trời lịm đi trong ánh đỏ/ Bóng tối trải dài, nuốt chửng mọi giấc mơ/ Những con đường cũ, phủ bụi thời gian/ Người đi qua, chỉ còn lại dấu chân mờ... Ngày sa tàn, không phải là kết thúc/ Mà chỉ là bóng đêm trước bình minh/ Hãy nhìn thật sâu vào tro tàn xưa cũ/ Sẽ thấy mầm sống đang đợi hồi sinh” (Ngày sa tàn).

Vẫn là cách nói “thẳng ruột ngựa” của người miền núi, của người dân tộc Mông bao đời sống trên núi cao mù sương, giọng thơ của nhà thơ trẻ Lâu Văn Mua đã biết “chắt lọc” ngôn từ của đồng bào mình và cậu đã đưa những ngôn từ ngay thật ấy lên “tầm đương đại”, như: “Một niềm đam mê xuyên thấu/ Sâu thẳm như một con dao/ Tôi hạnh phúc, tôi tìm thấy em/ Tình yêu của đời tôi”.

Đời sống văn nghệ nước ta mấy năm gần đây đã khích lệ nhiều người trẻ tuổi dấn thân vào sự nghiệp văn học đầy khó khăn, nhất là trong thời buổi cơ chế thị trường. Trường hợp của Lâu Văn Mua không ngoài “trào lưu” ấy, thơ của Lâu Văn Mua cho thấy một lựa chọn rất đáng trân quý. Những vần thơ mộc mạc nói về quê hương đất nước còn hơn cả vạn lời ngợi ca. Lâu Văn Mua đã cho thấy đâu đó cái nhìn đầy chất nhân văn về xứ sở mình sinh sống. Cái nhìn chất chứa. Cái nhìn tự hào như đưa ra một dự báo về một nhà nghiên cứu văn hóa Mông Thanh Hóa trong tương lai gần.

Đọc thơ của Lâu Văn Mua sẽ không thấy cái “gập ghềnh dốc lên dốc xuống” như các nhà thơ người dân tộc thiểu số thường viết. Cũng không thấy “cái gượng gạo” của các nhà thơ dân tộc Kinh cố tình viết cho “ra vẻ” dân tộc và miền núi. Thơ của Lâu Văn Mua thấy vừa dân tộc lại cũng thấy rất quảng đại. Cậu làm thơ với vốn văn hóa đã được học và với vốn ngôn từ cùng phong cách sống của dân tộc mình, của quê hương xứ sở mình.

Nhưng trong tim vẫn còn một vầng trăng khác/ vầng trăng của ký ức, của những đêm xưa/ và tôi hiểu rằng, dù trăng có đi qua/ vẫn còn một phần của nó ở lại trong lòng tôi” (Chia tay vầng trăng). Lâu Văn Mua không bỏ qua “sự khu trú vùng miền” mà cậu đã “kéo” sự khu trú xích lại và hòa nhập với văn học chung. Kéo để “Vẫn có những điều mới mẻ chờ đón phía trước”.

Nhà thơ Lâu Văn Mua đã nhận nhiều Giải thưởng về Văn học: Giải Nhì (Không có giải nhất) Cuộc thi tản văn – Giải Hoa hồng vàng lần thứ I, (nhóm Cộng đồng Văn xuôi Facebook 2025); Giải C – Cuộc thi Thơ ca và nguồn cội lần thứ 3, Hội thơ Làng Chùa 2025; Giải C - Giải thưởng hàng năm của Hội VHNT Thanh Hóa 2025 cho tập thơ Lâu Văn Mua (Nhặt xác em chất chồng bảo tàng). Anh là hội viên Hội Văn học nghệ thuật Thanh Hóa, hội viên Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam.

Nguyễn Trọng Văn
.
.