Nhà thơ Hải Đường, một thời mây bay
“Chuyện đã qua thì không làm lại được. Chuyện sắp tới dù có là người thông thái đến mấy cũng chỉ dự đoán được phần nào. Điều quan trọng nhất là biết được phải làm gì trong hiện tại, là ngay bây giờ ở đây”, (Hải Đường).“Chuyện đã qua thì không làm lại được. Chuyện sắp tới dù có là người thông thái đến mấy cũng chỉ dự đoán được phần nào. Điều quan trọng nhất là biết được phải làm gì trong hiện tại, là ngay bây giờ ở đây”, (Hải Đường).
Những dòng cuối này trong tự truyện “Người của một thời” của nhà thơ Hải Đường có tinh thần hiện sinh, triết lý đời sống.
Hải Đường cho biết: “Làng tôi tên Nôm là làng Vọc, xã Vũ Bản, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam (cũ). Tên cổ của làng là Quắc Thị, người ta dịch ra là “Cướp chợ”. Nghe nhà thơ kể, tôi chợt nhớ ra, thời còn Hà Nam Ninh, tôi đã đến Công an huyện Bình Lục làm việc. Giám đốc Công an tỉnh Hà Nam Ninh Nguyễn Văn Thuận một người rất dễ mến, sau khi đãi tôi ăn bánh cuốn, giò lụa thì cho lái xe chở tôi ra Bình Lục.
Thời đó, đất nước còn nghèo. Trụ sở Công an huyện là mấy dãy nhà xây còn sơ sài lắm. Sân trước công sở còn đổ sỏi, mưa xuống bùn nhoèn nhoẹt. Đến đó tôi mới biết Bình Lục là vùng đất “chiêm khê mùa thối”- có nghĩa là vùng trũng về dư địa của tỉnh Hà Nam Ninh, nên người đời gọi chệch đi cho vui là “Bình lụt”.
Trong ký ức của mình, nhà thơ Hải Đường vẫn nhớ xung quanh làng Vọc chỉ là đường đất, trời động mưa là trơn như đổ mỡ. Đến mức, ông chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp được phân phối chiếc xe đạp Thống Nhất, cũng phải vác lên vai, xắn quần móng lợn, mười đầu ngón chân bấm chắc xuống đường. Lo người ngã thì ít, lo xe hỏng thì nhiều. Cánh đồng trước làng nhà thơ Hải Đường thường mưa nước ngập trắng xóa. Có lẽ, vì thế mới có tên gọi là Đồng Trắng.
Tuổi thơ Hải Đường ngoài đói ăn thiếu mặc cũng lấm láp bùn đất những lúc tát ròn, mò cua, bắt cá... Đắp đổi vậy cũng phổng phao. Đứa nào cũng cao lớn vạm vỡ như cây lim cây táu, nhờ khoai sắn, khoai nước, cua, cá, ốc, ếch, cào cào, châu chấu... Rất may mắn, làng Vọc từ trước đã nhiều nghề, như làm bánh đa, miến dong, giò chả. Thời đó, còn cấm đoán nhưng rượu làng Vọc vẫn âm thầm đến với nhiều địa phương.
Trong cái làng quê ấy, gia đình Hải Đường là một hộ nông dân khó khăn. Hình ảnh cha mẹ hiện lên trong thơ ông nói lên tất cả.
“Cha tôi/ không biết đi xe đạp/ chưa một lần ngồi ô tô”, (Dấu chân cha); “Mẹ tôi buôn thúng bán bưng/ cha tôi sấp ngửa trên từng lối quê”, (Khi tôi chạm tuổi sáu mươi). Hải Đường mồ côi bố khi còn chưa kịp trưởng thành.
Ông nội là thầy giáo làng, dạy chữ Nho nhưng mất khi Hải Đường chưa sinh ra. Chỉ nghe mẹ kể lại, trước khi ông mất, trong những điều dặn dò con cháu, có câu: “Hữu thức phi nan, nan thức đáo/ Vô danh bất hoạn, hoạn tương phù”. Nghĩa là: “Muốn có tri thức không khó, khó nhất là tìm hiểu đến nơi đến chốn. Không có danh không sợ, chỉ sợ nhất là danh hão, danh suông”.
Câu nói này ảnh hưởng đến tính cách của Hải Đường sau này. Một đời phấn đấu làm “cây thẳng bóng ngay”, như tên một tác phẩm bình luận thời sự, thời cuộc của ông. Ngày mẹ tiễn ông lên đường, bà chỉ kịp dúi vào tay ít tiền lẻ nhặt nhạnh, tích cóp lâu nay. Đó là những giọt nước mắt và đồng tiền đi theo suốt cuộc đời ông.
*
Năm 1972, khi chưa đủ 17 tuổi, Hải Đường đã nhập ngũ. Ông tự trào: “Lính chống Mỹ xịn”. Ông được biên chế về Đoàn 1506, Bộ đội Công binh làm nhiệm vụ rà phá bom mìn ở Quảng Bình, Quảng Trị. Do có sẵn năng khiếu, Hải Đường bắt đầu “tập tọe” viết bài cho Báo Công binh và Báo Quân đội nhân dân.
Sau khi ra Bắc, Hải Đường trúng tuyển, đi học đại học, chuyên ngành Báo chí (khóa IV) Trường Tuyên huấn Trung ương (nay là Học viện Báo chí và Tuyên truyền). Sau 5 năm “dùi mài” nghiệp vụ, năm 1988, nhà báo Hải Đường nhận công tác ở Tạp chí Công tác Đảng, công tác chính trị thuộc Văn phòng Tổng cục Chính trị. Một năm sau, Hải Đường chuyển ngành về Ban Xây dựng Đảng thuộc Báo Nhân dân và công tác ở đây cho đến lúc nghỉ hưu. Từ một phóng viên, Hải Đường trở thành Ủy viên Ban Biên tập Báo Nhân dân.
Nhà báo, nhà thơ Hải Đường nhớ lại: “Khi tôi về công tác ở Báo Đảng, thấy ngợp trong không khí làm báo những năm đầu công cuộc Đổi mới của đất nước. Nhà báo Lê Huyền Thông dặn: Chú còn trẻ, cố mà đến những nơi thật xa, thật khó đến. Đi khổ viết mới sướng được”.
Hải Đường đã dấn thân, lăn lộn, trong và ngoài nước. Dẫu đã đến hết 63 tỉnh, thành phố (trước sáp nhập) nhưng ông vẫn thấy tiếc, còn 1/5 số huyện của các tỉnh trong toàn quốc chưa đến được. Không như các nhà báo mảng kinh tế, xã hội, Hải Đường làm báo, viết báo về thời sự, chính trị (chuyên mục Xã luận, Bình luận) và xây dựng Đảng. Thể tài đòi hỏi nhà báo Hải Đường phải gương mẫu, học tập, rèn luyện không ngừng, để đáp ứng yêu cầu của báo Đảng.
Nhà thơ Hải Đường vừa nhận được tập sách do Nhà nước đặt hàng, gồm thơ và truyện ký “Mây vẫn bay”, (phần thơ) và “Người của một thời”, (truyện ký). Tác phẩm sang trọng, dày dặn gần 350 trang.
Phần thơ “Mây vẫn bay” gồm 187 bài, gần như là phần lớn “gia tài”, vì nhà thơ Hải Đường ít in thơ, đến nay mới in 6 tập thơ. “Làm thơ từ sớm, bỏ bẵng đi một thời gian dài rồi mới trở lại”, Hải Đường viết trong tự truyện. Nhà thơ Hải Đường cũng thành thật: “Tôi làm thơ không nhiều, viết chậm. Phần vì tài năng. Phần vì thời gian chủ yếu dành cho làm báo”.
Thơ Hải Đường là tiếng thơ tự sự, nội tâm. Tâm hồn thơ được rong ruổi, song hành cùng bước chân nhà báo, nên dễ nhận ra thơ ông đa dạng đề tài, nhiều thể loại. Đọc thơ ông, từng người đọc đều tìm kiếm được cho mình mảng thơ ưa thích. Riêng tôi, tìm kiếm ở nhà thơ Hải Đường mảng thơ của sự chiêm nghiệm.
Làm phóng viên Báo Nhân dân dẫu là đi cơ sở nhiều nhưng cái “khổ”, theo như nhà báo Hữu Thọ một lần trò chuyện với phóng viên trẻ cơ quan là, viết thế nào để người ta đọc bài báo xong trọng nhà báo.
Một lần, đi công tác Nhật Bản, Hải Đường quan sát một cửa hàng xăng. Ông phát hiện ra sự khác biệt: “Lần đầu tiên một cây xăng gây sốt/ không phải vì sốt giá mà sốt vì ông chủ/ đứng hàng giờ trong mưa cúi đầu/ chào Thượng đế để cầu chúc một ngày may mắn” (Bởi họ biết cúi đầu).
Sau Thế chiến 2, vươn từ đổ nát, hoang tàn, Nhật Bản trở thành một quốc gia giàu có thuộc nhóm G7. Bài học của họ cho đến hôm nay vẫn luôn có giá trị. Về kinh tế, họ biết tạo ra “hệ sinh thái” xung quanh con chip điện tử; về văn hóa, họ biết tạo ra giá trị từ sự tử tế.
“Nước Nhật giàu có văn minh/ bởi biết giành Thượng đế về mình/ bởi họ biết cúi xuống/ nên họ cao hơn trong mưa gió mù trời” (Bởi họ biết cúi đầu). “Thượng đế” ở đây là người tiêu dùng trong và ngoài nước. “Mưa gió mù trời” ở đây là các cuộc khủng hoảng kinh tế lớn nhỏ, những lần đứt gãy chuỗi giá trị toàn cầu.
Những mảng thơ của sự trải nghiệm trong thơ Hải Đường luôn “đánh thức” những giá trị luân lý, đạo lý. Hay, nói cách khác, thơ ông giàu ý nghĩa nhân sinh, triết lý, ngay cả khi Hải Đường quan sát, liên tưởng từ những điều cụ thể, gần gũi.
“Những sự thật không đi tìm giá đỡ/ yêu thương thì nhớ, hận thù thì quên/ những hiện vật như mặt trời không tắt/ vẫn lặng thầm ủ nắng đêm đêm” (Giá đỡ trong bảo tàng). Đúng là lửa thì không cần trang phục, sự thật không cần giá đỡ.
Với sự trải nghiệm như Hải Đường, nhiều khi quan sát con nhện giăng mồi cũng làm bật lên trong ông một định đề: “Con nhện khác con người/ chúng ung dung đi trên tấm lưới/ dệt bằng máu thịt của mình” (Giăng lưới).
Dẫu rời quê quá nửa đời người nhưng ký ức vẫn là mối dây liên hệ của Hải Đường với quê nhà, đau đáu về những góc khuất của sự tha hóa nhân cách làm người trong cõi người: “Chợ người vẫn cuộc đỏ đen/ xòe tay tính sổ kẻ hèn người sang/ rượu quê tha thủi giữa đàng/ kia như giọng nói người làng đó ư?” (Chợ người).
Nông thôn sau quá trình “Nông thôn mới” đã thay da đổi thịt, nhưng quan hệ con người vơi dần tình làng nghĩa xóm. Và, ông lo âu những đứa trẻ nông thôn lớn lên cùng với một khoảng trống rỗng ký ức, đó là sự mất mát rất lớn.
“Ngày xưa ơi/ chẳng ai mong/ mà sao cứ nhớ” (Gọi ngày xưa). Suy tư, ưu tư, xa xót là phẩm tính thơ Hải Đường. Trái tim ông mang trong mình “tinh thần” của Gamzatop (nhà thơ Nga), cái gì thuộc về làng được ông gìn giữ. Bởi, cố thổ có ký ức không đâu có, con người không ai sinh ra hai lần.
