Nghe đờn ca tài tử ở đất phương Nam

Thứ Sáu, 31/01/2025, 08:17

“Chim én lượn vòng quanh trong nắng mai, mừng Chúa Xuân đang về. Trăm hoa khoe sắc đưa hương đón chào mùa xuân”... Những câu vọng cổ như thế từ lâu rồi đã ngự trị trong nhịp đập con tim của người dân sông nước miền Tây Nam bộ. Vào dịp lễ Tết, đám tiệc cưới gả, giỗ quải, hầu như đều có giai điệu ngân nga, da diết ấy của ca cổ.

Hát để chia sớt nỗi niềm

Cứ mỗi dịp có chuyến công tác xuống miền Tây Nam bộ, nhất là Cà Mau, tôi lại được anh em Tòa án đãi một chầu ca cổ. Lần này cũng vậy, từ Rạch Giá, tôi qua Miệt Thứ, rồi đến Cà Mau lúc hơn 5 giờ chiều, anh em đã chờ sẵn ở một nhà hàng, với một phòng riêng kiểu thủy tạ lợp lá dừa duyên dáng, nằm giữa hồ nước bốn bề mênh mông gió lộng. Một nữ ca sĩ và một tay đờn đã được mời đến giúp vui. Đêm đó, ánh trăng vằng vặc, tỏa sáng lấp lánh trên sóng nước mặt hồ.

don-ca-tai-tu-nam-bo.jpg -1
Đờn ca tài tử trên bưu ảnh xưa.

“… Ôi đẹp biết bao nhiêu mùa xuân đang về reo vui trên từng con phố nhỏ, từng cánh hoa mai đua nhau khoe sắc thắm, gió nhẹ vờn lay hòa quyện gió đông… về” - anh Thẩm phán Tòa án tỉnh Cà Mau xuống hò bài “Mùa xuân trên quê hương” của Võ Duy Khang, trong tiếng đờn điêu luyện, được mọi người vỗ tay tán thưởng.

Nữ ca sĩ hát theo yêu cầu của khách và khách cũng thay nhau ca hát, hát như trải lòng mình, hát cho vơi đi mệt nhọc, hát để chia sớt nỗi niềm… Người nọ ngừng thì người kia ca, lắm giọng ca không kém chi dân chuyên nghiệp. Hỏi ra thì anh em đều mê đờn ca từ nhỏ, nghe ca hoài rồi những bài ca cổ đó chợt thuộc nằm lòng tự lúc nào không biết.

Hôm tôi xuống đất mũi Cà Mau, dừng lại ở cột mốc số 0 tại Đất Mũi chợt thấy vang lên bài “Áo mới Cà Mau”, hóa ra tại đây cũng có đội văn nghệ đờn ca tài tử phục vụ quý khách phương xa.

Tinh hoa hội tụ

Ca cổ, đờn ca tài tử và cải lương đều có nguồn gốc sâu xa từ hát bội. Nam bộ thường dùng từ “hát bội” chỉ nghệ thuật “tuồng”. Đây là thể loại sân khấu hát nói, nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Hiệp trong một chuyên khảo về hát bội, cải lương và đờn ca tài tử giải thích “đào kép (diễn viên) hóa trang nhiều son phấn và phải giắt (bội) những cờ phướn, lông công, lông trĩ lên quần áo sặc sỡ” nên gọi là hát bội. Tuồng vốn từ Đàng Ngoài vào Đàng Trong từ thế kỷ XVII, sau đó lưu dân mang vào Nam bộ khoảng thế kỷ XVIII và XIX. Do lưu dân người Hoa đến miền Nam lập nghiệp ngày càng nhiều, hát bội vì thế cũng ảnh hưởng phong cách Hồ Quảng của cư dân miền Nam Trung Hoa.

Năm 1889, nhân kỷ niệm 100 năm Cách mạng Tư sản Pháp, người Pháp đã mang hát bội đi trình diễn tại Paris. Gánh hát do ông Nguyễn Đông Trụ làm giám đốc và đạo diễn, đã làm ngạc nhiên công chúng Pháp, và qua đó nhiều người Pháp thích thú và quan tâm đến văn hóa, phong tục Việt Nam.

Đến cuối thế kỷ XIX, bên cạnh hát bội thì “đờn ca tài tử là môn giải trí thanh tao cá nhân và trong các dịp lễ hội truyền thống”. Khi đó, đờn ca tài tử phổ biến khắp Nam Kỳ với các thầy đờn nổi tiếng như Nguyễn Liên Phong và con trai là Nguyễn Tòng Bá (Sài Gòn), Nguyễn Tống Triều (Mỹ Tho), Phạm Đăng Đàn, Trần Quang Quờn, Tống Hữu Định (Vĩnh Long)… Soạn giả thì có Trương Duy Toản, Nguyễn Trọng Quyền, Nguyễn Liên Phong, Trần Phong Sắc.

Và đờn ca tài tử cũng được đưa sang Pháp biểu diễn. Ông Nguyễn Tống Triều (Bảy Triều) đã mang ban nhạc tài tử của ông sang Pháp năm 1900 và 1906, gây được ấn tượng mạnh với khán giả Tây phương và cũng vì thế đờn ca tài tử càng trở nên phổ biến ở Nam Kỳ. Nguyễn Liên Phong trong “Nam kỳ phong tục diễn ca” đã viết: “Tục hay đờn địch giải buồn/ Cúng cơm, đãi tiệc thơ tuồng xướng ca/ Kìm tranh bài bản rập hòa/ Thanh tao, nhã hứng miệng ca, tay đờn”… Điều đó cho thấy các đám cúng quải, đãi tiệc thường có đờn ca tài tử giúp vui, không phải bây giờ mới phổ biến. Các nhà hàng thời đó cũng có các ban nhạc tài tử để thu hút khách hàng.

Khoảng những năm 1922-1923, một cuộc họp của các thầy đờn danh tiếng đã chọn và thống nhất các thể loại bài ca tài tử và 20 bản được chọn, gọi là bản tổ, tiêu biểu cho 4 điệu nhạc có cấu trúc âm thanh khác nhau gồm 6 điệu Bắc, 7 điệu Hạ nhạc lễ, 3 điệu Nam và 4 điệu Oán với 4 hơi Xuân, Ai, Đào, Ngự.

Một trong những thầy đờn đó là Nguyễn Quang Đại - Ba Đợi, quê ở Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ, không thích văn chương khoa cử mà ham mê âm nhạc nên ông sớm trở thành một nhạc sĩ tài hoa ở Kinh đô Huế. Ông được tuyển chọn làm nhạc công của triều đình. Năm 1885, ông đã hưởng ứng phong trào Cần Vương, bỏ Kinh thành Huế, theo ghe bầu vào miền Nam. Ở vùng đất mới, ông dành tâm huyết truyền dạy nhạc cổ truyền cho học trò. Thời đó, nhà giàu có tiền đi học đờn rồi về dạy lại cho anh em, bè bạn, bà con lối xóm, để có được nhiều người đồng điệu tri âm cùng vui chơi với mình. Chủ điền, tá điền, người làm ruộng mướn, khi chiều xuống, nhàn rỗi là tụ họp nhau lại đờn ca, tập dượt bài bản, say mê có khi thâu đêm suốt sáng.

dancataitu2 (1).png -0
Đờn ca tài tử trong vườn cây trái - Ảnh: VH

Khi phong trào đờn ca tài tử nở rộ thì thì hát bội cũng bắt đầu được “cải lương”, nghĩa là thay đổi cho hay hơn mà thay đổi lớn nhất là ca ra bộ. Người nghệ sĩ cùng với tiếng ca là các điệu bộ diễn tả cảm xúc, khiến sân khấu sinh động, hấp dẫn khác hẳn cách ca mà không có diễn. Ông Tống Hữu Định (Phó Mười Hai) người Vĩnh Long được xác định là người đầu tiên nghĩ ra kiểu ca ra bộ. Sau khi ông xem cô Ba Đắc đứng lên ca với điệu bộ bài Tứ đại “Bùi Kiệm - Nguyệt Nga” diễn tả ba vai Bùi Ông, Bùi Kiệm và Nguyệt Nga thì ông nảy sinh ý tưởng dùng ba nhân vật khác nhau hát họa ra bộ bài đó. Đây là sự kiện đánh dấu bước phát triển của đờn ca tài tử là tiền đề cho sân khấu cải lương ra đời.

Điều thú vị là cải lương lại chịu ảnh hưởng của kịch nói phương Tây với cách diễn xuất tự nhiên, vở diễn chia thành nhiều hồi và có trang trí sân khấu theo từng cảnh khác nhau, thêm vào đờn ca tài tử, sau này có điệu hát “Dạ cổ hoài lang” và nhạc phương Tây tạo nên nghệ thuật sân khấu cải lương hoàn thiện ngày nay. Khi đó, nhiều tác phẩm văn học Pháp, nhiều tiểu thuyết xã hội của các nhà văn đương thời đã được chuyển thành những vở cải lương đặc sắc.

Năm 1919, Cao Văn Lầu (Sáu Lầu) sáng tác bản “Dạ cổ hoài lang” - Nghe tiếng trống đêm nhớ chồng: “Từ là từ phu tướng/ Bảo kiếm sắc phán lên đàng/ Vào ra luống trông tin chàng/ Năm canh mơ màng/ Em luống trông tin chàng/ Ôi gan vàng quặn đau”. Sau đó Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền đưa bài này vào vở “Bội phu quả báo” của soạn giả Phạm Công Bình. Báo Kịch bóng (1935) từng viết: “Từ đó một truyền cho mười, mười truyền cho trăm, trăm truyền cho ngàn, chẳng bao lâu mà khắp xứ, chỗ nào cũng có vài người biết đờn hay ca “dạ cổ”…''

Trao truyền báu vật

Nhạc sĩ Đặng Hoành Loan cho rằng có một số đặc trưng nổi bật khiến đờn ca tài tử trở thành báu vật. Thứ nhất, đờn ca tài tử là một tập tục không thể thiếu trong sinh hoạt của người dân Nam bộ khoảng 100 năm nay, đối với người dân “như cơm ăn nước uống”. Thứ hai, đây thật sự là loại hình nghệ thuật duy nhất không phụ thuộc vào không gian văn hóa, hoặc các không gian trình diễn theo mùa vụ. “Cứ hứng lên thì chơi, gặp nhau thì chơi, thương nhau thì cũng chơi, và hội hè, ma chay cưới hỏi cũng đều chơi”.

Điểm thứ ba, đó là một lối hòa đàn trác tuyệt, mà ở đấy tính ngẫu hứng được đặt lên trên hết. Điểm thứ tư rất quan trọng là đờn ca tài tử đã xác định được cách hoàn thiện “nhạc ngữ” của âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Điều thứ năm là đã tạo được các “ngón đờn” để thỏa mãn hàng loạt cung bậc tình cảm. Những nghệ sĩ tài tử Nam bộ đã tìm ra được các phương pháp bấm ngón đàn, tạo ra nhiều nhạc ngữ khác nhau, khi vui, khi buồn, khi oán hận… Điều trác tuyệt là ở chỗ này. Đấy là ngón đờn tạo ra các hơi trên thang bậc ngũ cung.

Để duy trì, nuôi dưỡng và phát hiện những nhân tố có khả năng đờn hát, các tỉnh Nam bộ hầu hết đều có các giải thưởng, các liên hoan vọng cổ cải lương hàng năm.... mà giải thưởng có khi lên đến hàng trăm triệu đồng. Tuy nhiên, để đờn ca tài tử, di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại như UNESCO công nhận, phát triển và giữ được vẻ đẹp nguyên gốc của nó thì còn nhiều vấn đề khiến những người tâm huyết phải trăn trở.

Nguyễn Phan Khiêm
.
.