100 năm nghệ thuật cải lương Việt Nam

Thách thức ở phía trước…

Thứ Năm, 07/06/2018, 17:47
Như chúng ta đã biết, nghệ thuật Cải lương được khẳng định xuất hiện từ năm 1918, tính đến nay vừa tròn một thế kỷ (1918 - 2018). Theo một số nhà nghiên cứu, lý luận, Cải lương là một loại hình kịch hát có nguồn gốc từ miền Nam Việt Nam, hình thành trên cơ sở dòng nhạc Đờn ca tài tử và dân ca miền đồng bằng sông Cửu Long, nhạc tế lễ.


Buổi đầu, khoảng cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, các nhóm đờn ca được thành lập cốt để tiêu khiển, phục vụ trong các buổi lễ tại tư gia, như đám tang, lễ giỗ, tân hôn... nhưng chưa hề biểu diễn trên sân khấu hay trước công chúng.

Từ những năm 1920 - 1930 là thời kỳ phát triển mạnh mẽ, nhiều gánh hát Cải lương đã ra đời. Tiếp sau đó, từ những năm 1930 - 1934, nghệ thuật Cải lương đã lan truyền ra ngoài Bắc. Nhưng phải nói rằng, chỉ từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, trải qua cuộc kháng chiến thần thánh 9 năm chống thực dân Pháp, hòa bình được lập lại trên miền Bắc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các đơn vị nghệ thuật sân khấu được thành lập và hoạt động trong ngôi nhà chung là Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam - trong đó có các đoàn nghệ thuật Cải lương - thì nghệ thuật Cải lương mới thực sự phát triển một cách rực rỡ…

Những gánh hát nổi tiếng thời kỳ đầu của sân khấu cải lương.

Suốt 100 năm tồn tại, phát triển với không ít những khó khăn, thách thức, nghệ thuật Cải lương Việt Nam đã tạo nên một phong cách độc đáo, có diện mạo, bản sắc, phong cách riêng: Đậm đà cốt cách dân tộc, trữ tình, đằm thắm, nhưng lại bắt kịp những nét tiên tiến, hiện đại của cuộc sống hôm nay. Qua hàng ngàn tác phẩm lớn, nhỏ, cả những tiểu phẩm, trích đoạn mẫu mực, nổi tiếng; từ các đề tài lịch sử, dân gian, dã sử, huyền thoại, nước ngoài… cho đến các đề tài đương đại; phản ánh và ghi lại cũng như đã làm nên những tác phẩm lớn, với những thành công nhất định, để lại những tình cảm tốt đẹp trong lòng công chúng yêu Cải lương trên cả nước.

Đặc biệt với đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh thì thành công của vở diễn "Người công dân số một" của Nhà hát Cải lương Việt Nam tại Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc - Hải Phòng năm 1980 (lần đầu tiên được tổ chức sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất) là một trong những thử nghiệm rất đáng được ghi nhận...

Đó là hình ảnh Bác Hồ xuyên suốt qua những chặng đường lịch sử của dân tộc với khí phách và tâm hồn Việt Nam… nhưng không phải bằng những mảnh ghép minh họa đơn giản, sơ lược; trái lại, tập thể nghệ sĩ của Nhà hát - từ vai chính đến vai phụ… đều mang hết tài năng của mình để cố gắng khắc họa một hình ảnh của Bác: vừa anh hùng, vĩ đại, nhưng lại hết sức giản dị, gần gũi với quần chúng, nhân dân - bởi đây là tác phẩm thử nghiệm đầu tiên, công phu, tâm huyết về nghệ thuật để thể hiện hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh trên sân khấu Cải lương…

Sau thành công với vở diễn này, 25 năm sau - năm 2005 - với một tập thể chủ yếu là các nghệ sĩ trẻ, Nhà hát Cải lương Việt Nam lại thành công với một thử nghiệm mới, đó là Liên khúc Sử thi "Hồ Chí Minh, đẹp nhất tên Người", dựng nên hình tượng Bác Hồ trải qua ba giai đoạn lịch sử: Phần I - người thanh niên Việt Nam Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước năm 1911, cùng những hoạt động sau đó của Người trên đất Pháp vào những năm đầu thế kỷ XX, Bác đã là một nhà báo lớn, tờ "Người cùng khổ" - (Le Paria) - với nhiều bài viết sắc sảo đầy tính chiến đấu, cùng những vở kịch, tranh minh họa, tranh châm biếm đả kích bọn đế quốc, thực dân, đã khẳng định tên tuổi của Người trong giới báo chí tại Pháp.

Đặc biệt, nhiều bức tranh đả kích do Người vẽ, đến nay vẫn còn giá trị và cũng chứng minh tài năng đa dạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau này, cùng với những hoạt động ở Pháp, trong mối quan hệ của Bác với những nhà văn hóa, những nhà văn, họa sĩ, nhà thơ nổi tiếng; Nguyễn ái Quốc luôn được đánh giá là một người am hiểu tường tận và sâu sắc cả văn hóa Phương Đông lẫn văn hoá Phương Tây. Phần II - Bác Hồ tại chiến khu Việt Bắc chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Pháp từ 1946 đến 1954, và cuối cùng, Phần III là hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh với Lời kêu gọi nổi tiếng ngày 17/7 năm 1966 trong cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm, hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!"...

Những danh ca sân khấu cải lương một thời. Trong ảnh: diễn viên Thanh Nga (ngoài cùng bên trái) nhận Huy chương Vàng giải Thanh Tâm năm 1958.

Phải ghi nhận rằng, trong thành công chung trên cả chặng đường sáng tạo đó - từ các tác giả kịch bản, đạo diễn, âm nhạc, mỹ thuật, múa… cho đến nghệ thuật diễn xuất của các nghệ sĩ - đã làm nên một tổng thể nghệ thuật hoàn chỉnh, tạo nên thương hiệu của nghệ thuật Cải lương Việt Nam: Sang trọng nhưng nền nã; hoành tráng, rực rỡ mà không lòe loẹt; dung dị nhưng không giản đơn; đậm đà bản sắc dân tộc nhưng không bảo thủ; hiện đại nhưng không lai căng; dữ dội nhưng lại rất đằm thắm, trữ tình - kết hợp được các yếu tố cách điệu, ước lệ, tượng trưng, gợi tả của sân khấu truyền thống với những thủ pháp sân khấu tiên tiến của thế giới… nên đã đạt hiệu quả nghệ thuật cao, cũng như đã đạt nhiều Giải thưởng tại các Hội diễn, Liên hoan sân khấu trong nước và Quốc tế trong suốt nửa thế kỷ qua…      

Nhưng rồi, như chúng ta vẫn thường nói - quá khứ bao giờ cũng ở phía sau lưng, cho dù đó là một quá khứ huy hoàng và chói lọi - mà không khéo, cái gánh nặng quá khứ nhiều khi làm cho mình khó cất nổi bước chân hơn để đi lên phía trước. Tình yêu và niềm tin của khán giả đối với sân khấu Cải lương hôm nay, trong đó có Cải lương Bắc hình như đã có vẻ chững lại, giảm sút; những "ông hoàng", "bà chúa" của thánh đường sân khấu đã có vẻ không còn hấp dẫn công chúng, nhất là lớp trẻ nữa.

Hình như, sự thiếu vắng bao nhiêu sự kiện, bao nhiêu nhân vật từ lịch sử cận đại đến hiện đại mà nghệ thuật Cải lương chưa khắc họa, trình bày, lý giải được một cách chân thực và cuốn hút, nên không để lại được trong trái tim mỗi khán giả, một hình tượng nghệ thuật nào đó, như trước kia - nhất là thời kỳ hoàng kim đầu những năm 80 đến cuối 90 của thế kỷ XX - đã từng một thời làm mê đắm lòng người. Trái lại, hình như các vở diễn chỉ mới ở mức minh họa lịch sử một cách chung chung, thậm chí là hời hợt và non kém.

Trong khi với các đề tài hiện đại thì ngày càng rời xa hiện thực vô cùng phong phú của cuộc sống hôm nay… Hình như, đã đến lúc chúng ta phải tự nhìn lại mình một cách nghiêm khắc hơn, để cùng nhau hướng tới. Tất nhiên, đó là một công việc sáng tạo nghệ thuật nặng nề, khó khăn, lâu dài của nghệ thuật Cải lương Việt Nam, trong công cuộc đổi mới của đất nước với tầm nhìn mới từ nay đến những năm 2030 - 2050!    

Nghệ thuật Cải lương Việt Nam đã trải qua chặng đường vừa tròn một trăm năm tuổi. Đó chỉ như là một chớp mắt, nhưng cũng đủ thời gian để làm nên một diện mạo hấp dẫn, độc đáo của riêng mình, nếu so với nghệ thuật sân khấu dân gian, truyền thống dân tộc như Chèo, Tuồng đã có cả ngàn năm lịch sử. Đã đến lúc, các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các Hội văn học nghệ thuật chuyên nghành cần phải quan tâm hơn nữa đến nghệ thuật Cải lương trong bối cảnh mới, một cách đầy đủ, sát sao, cả trước mắt cũng như lâu dài, một cách hiệu quả, thiết thực, không quan liêu, đánh trống bỏ dùi, cũng không hình thức chủ nghĩa được chăng hay chớ; để tạo nên những diện mạo mới, đào tạo hình thành một đội ngũ thế hệ mới các tác giả, đạo diễn, họa sĩ, nhạc sĩ, biên đạo múa, các nhà lý luận, phê bình… các nhà quản lý có nghề và tâm huyết; và nhất là một thế hệ các nghệ sĩ biểu diễn trẻ, để bước tiếp trên con đường sáng tạo đầy khó khăn, khổ ải vẫn đang  chờ ở phía trước; nhằm lấy lại niềm tin yêu của công chúng với nghệ thuật Cải lương, cũng như góp phần làm cho nền Nghệ thuật Sân khấu Việt Nam bắt kịp những nền sân khấu tiên tiến, hiện đại trên thế giới!

Lê Huy Quang
.
.