Kết tinh và lan tỏa
Nghị quyết về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh năm 2025 có hiệu lực kể từ ngày 12/6. Có thể nói, đây là sự biến chuyển lớn nhất của đất nước, mở ra bước đột phá về quản lý hành chính và kiến tạo dư địa về diện tích, dân cư và không gian cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Nhưng, cần nhận diện việc sáp nhập này trong mối tương quan với truyền thống văn hóa, lịch sử; đặc biệt là sự xuất hiện những vùng miền văn hóa mới như thế nào khi có những câu hỏi được đặt ra đầy băn khoăn với không ít người...
Phát biểu bế mạc Hội nghị toàn quốc tập huấn mô hình chính quyền địa phương 2 cấp sáng 15/6, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh: “Đất nước là quê hương, 63 tỉnh thành là đất nước, quê hương, mà 34 tỉnh thành cũng là đất nước, quê hương của chúng ta. Do đó, phải đấu tranh, xóa bỏ mọi định kiến và vì sự phát triển chung" (theo Vũ Tuân - vnexpress.net).

“Xóa bỏ mọi định kiến” là thông điệp lớn nhất mà người đứng đầu Chính phủ muốn gửi đến chúng ta. Ở đây, cần phải có một cách tiếp cận đúng vấn đề: Từ 63 tỉnh, thành cũ đến 34 tỉnh, thành mới là một sự thay đổi cả về tư duy chứ không dừng ở việc xác lập đơn vị trên bản đồ hành chính. Hay, nói cách khác, đất nước cần 34 không gian văn hóa để tạo nên một tinh thần thời đại để bước vào kỉ nguyên mới, đủ sức vượt qua những thách thức và hội nhập quốc tế mạnh mẽ.
34 tỉnh, thành ấy cũng là quê hương của tất cả chúng ta. Vì thế, việc tiếp nối mạch nguồn của quá khứ, kết tinh các giá trị được nhận diện trong thời điểm hiện này và lan tỏa trong tương lai sẽ như thế nào? Làm sao để không mất đi những giá trị cũ từ tên gọi địa danh cụ thể, đặc điểm tộc người, địa văn hóa đến khả năng giao lưu, tiếp thu và không làm mất đi bản sắc vốn có?
Người viết cho rằng: Câu trả lời này không ở đâu xa mà chỉ cần nhìn vào đúng bản chất của nền văn hóa Việt Nam. Cố GS Trần Quốc Vượng cho rằng:
“Văn hóa, theo nghĩa rộng, là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người, bao hàm cả kỹ thuật, kinh tế... để từ đó hình thành một lối sống, một thế ứng xử, một thái độ tổng quát của con người đối với vũ trụ, thiên nhiên, và xã hội, là cái vai trò của con người trong vũ trụ đó, với một hệ thống những chuẩn mực, những giá trị, những biểu tượng, những quan niệm,... tạo nên phong cách diễn tả tri thức và nghệ thuật của con người.
Như vậy thì phải xuất phát từ những điều kiện tự nhiên (con người vốn là một sản phẩm của tự nhiên, là một phần của tự nhiên, đứng đối diện với tự nhiên mà tạo thành văn hóa) rồi sau đó những điều kiện lịch sử (con người lại là một sản phẩm của lịch sử do chính mình tạo ra) để nhận thức về cội nguồn và bản sắc của nền văn hóa Việt Nam” (trích “Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm”, NXB Văn học, Hà Nội, 2016, tr. 27 - 28).
Khi đọc lại đoạn trích dẫn trên, người viết ấn tượng với phát hiện của cố giáo sư: “Thái độ tổng quát của con người đối với vũ trụ, thiên nhiên, và xã hội”. Quả thật, văn hóa là sự nhận thức tổng quát chứ không dừng ở một kinh nghiệm cụ thể, riêng biệt, rời rạc. Mặt khác, văn hóa có được như ngày hôm nay bởi luôn đặt trong sự giao lưu, đối sánh, đối thoại.
Khi bàn tới văn hóa vùng miền, đến đời sống vật chất tinh thần của người dân hàng ngàn đời nay, xin lấy một ví dụ về ca dao, dân ca như một minh chứng tiêu biểu cho tâm hồn và trí tuệ dân gian. Bài ca dao "Tát nước đầu đình" đã được bao thế hệ người Việt nằm lòng và đưa vào chương trình sách giáo khoa phổ thông nhưng lại có những dị bản thú vị.
Trong bài viết có tên "Tính dị bản - điều thú vị trong tục ngữ, ca dao" của tác giả Huyền Anh trên Báo Cà Mau có đoạn viết: “Gần đây, người ta lại tìm thấy thêm hai dị bản, một của Phú Yên, một của Bình Ðịnh. Về nội dung, cả ba đều là ca dao nói về tình yêu, xây dựng lời tỏ tình của chàng trai trên nền kết cấu “áo rách - nhờ khâu (vá) - trả công”. Nhưng, ở chúng vẫn có những điểm khác nhau. Thứ nhất, về một số từ ngữ, lễ vật hỏi cưới trong hai bài ca dao sau mang tính đặc trưng riêng của địa phương. Chẳng hạn, bản của Phú Yên không nói “lợn” mà nói “heo”, không nói “khâu” mà nói “vá”, không “giúp đôi chăn” mà “giúp đôi áo”, không “đèo buồng cau” mà “đèo bông tai”... Tiếp nữa là hai bài ca dao sau không chỉ đề cập tới nội dung “giúp của” phục vụ cho hôn lễ mà còn “giúp của” dùng trong sinh hoạt hằng ngày”.
Ở đây, người viết không đi sâu vào phân tích các giá trị ngữ văn hay văn hóa dân gian mà chỉ muốn đề cập đến một điều: Văn hóa có được bởi sự gắn kết, giao thoa, bởi sự mở cửa, biến đổi đa dạng, vừa mang tính phổ quát, vừa riêng có chứ không phải dựa trên sự khu biệt, đó chính là sự thống nhất trong đa dạng. Trong đó, sự đa dạng đã tạo ra sức mạnh của văn hóa Việt Nam, đã truyền lửa cho những đoàn quân ra trận bảo vệ Tổ quốc, tạo nên sự sâu sắc trong kiến tạo nền văn hiến sau khi giành độc lập, xây dựng nền hòa bình, ổn định và phát triển.

Hơn hết, sự đa dạng ấy cần đến sự thống nhất bằng một niềm tin. Tin ở vốn trí thức dân tộc của những người anh em láng giềng, tin ở trí tuệ nhân dân và cả những quan điểm về nhân sinh vốn có của từng dân tộc, từng vùng miền. Sự thống nhất thể hiện sức mạnh gắn kết, thể hiện phẩm chất con người ở dạng phổ quát nhất. Văn hóa ở dù dạng phi vật thể hay vật thể đều được lưu giữ trong tâm hồn chứ không chỉ hiện hữu qua một di tích, hiện vật cụ thể nào.
Hơn nữa, ở thời nào cũng thế, sự phát triển kinh tế, xã hội cũng là động lực phát triển văn hóa. Ví như, người ta cho rằng chủ nhân văn hóa Đông Sơn từng kế thừa các thành tựu văn hóa vật chất từ các nền văn hóa tiền Đông Sơn, để tiếp tục việc khai phá và biến vùng đất hạ lưu sông Mã thành một vùng đất màu mỡ, thành trung tâm phát triển của cả khu vực để từ đó sản sinh ra nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ như chúng ta đã thấy.
PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội có một nhận định: “Với góc nhìn văn hóa, tôi nhận thấy việc sáp nhập địa giới hành chính cấp tỉnh không chỉ giúp tinh gọn bộ máy, mà còn có thể tạo ra những vùng văn hóa mới với sự đa dạng, phong phú hơn. Khi các địa phương có đặc điểm tương đồng về kinh tế, văn hóa, xã hội được hợp nhất, thì lợi thế của từng vùng có thể bổ trợ lẫn nhau, tạo ra một bản sắc văn hóa chung mạnh mẽ hơn.
Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh hiện nay, khi văn hóa không chỉ là yếu tố nhận diện bản sắc địa phương mà còn là động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp văn hóa, du lịch, sáng tạo. Tuy nhiên, cần hết sức cẩn trọng để tránh tình trạng làm mờ nhạt hoặc đánh mất những giá trị văn hóa đặc trưng của từng địa phương khi thực hiện sáp nhập”.
Những nhận định của các nhà nghiên cứu, cảm nhận của từng người dân sẽ được minh chứng bằng thực tiễn trên chặng đường mới. Những giá trị của truyền thống sẽ lan tỏa để giàu có thêm nền văn hóa Việt Nam trong tương lai...