Cơ chế đặc biệt cho âm nhạc dân tộc
Trong một cuộc tọa đàm nhỏ mới đây về âm nhạc dân tộc, ý kiến của một nhạc sĩ có uy tín đã khiến những người góp mặt phải giật mình. Anh đưa video minh họa ví dụ về các lễ hội truyền thống của người dân tộc Choang ở Quảng Tây, Trung Quốc, với hình ảnh mô tả một buổi trình diễn trống đồng tập thể. Ví dụ ấy để anh đi đến câu hỏi: “Người Việt còn giữ được bao nhiêu vốn cổ quý giá thế này và làm thế nào để bảo tồn, phát huy và phục dựng những thứ đã mai một?”.
Sự say mê đối với âm nhạc giải trí tỷ “views”, triệu “views” cùng với cơn sóng “hào nhoáng xa hoa” giao hưởng thính phòng đã và đang làm rất nhiều người quên mất rằng chúng ta còn một kho tàng âm nhạc dân tộc rất phong phú.
Và, chúng ta dễ tự thỏa mãn, dễ tự ru ngủ khi cho rằng tinh thần của âm nhạc dân tộc vẫn đang mạnh mẽ thông qua vài bản nhạc pop nổi tiếng được thêm thắt gia vị là chút màu sắc dân ca hoặc có một vài tiết nhạc được trình tấu bằng âm thanh từ nhạc cụ dân tộc như tranh, bầu, sáo, nhị.
Chúng ta quên không nhìn sâu vào bản chất và hiện tượng đang tồn tại của âm nhạc dân tộc hôm nay. Dù vẫn còn đó những dàn nhạc dân tộc biểu diễn thường xuyên nhưng có rất nhiều loại nhạc cụ dân tộc đang thiếu người theo học vì hai lẽ. Thứ nhất, học xong khó có đất kiếm sống. Và, thứ hai, muốn học cũng không dễ kiếm người dạy.
Các nhạc cụ dân tộc phổ cập như tranh, bầu, sáo, nhị, nguyệt thì khá đơn giản trong việc giải quyết hai câu hỏi kể trên nhưng kho tàng âm nhạc dân tộc Việt Nam đâu chỉ có những nhạc cụ đó. Còn nhiều nhạc cụ hiếm và đặc sắc nữa rất cần được bảo tồn và công việc này đòi hỏi một tầm nhìn lâu dài, với mức đầu tư cụ thể và thực hiện một cách khoa học.
Đầu tiên, phải có các đợt khảo cứu nghiêm túc, mang tính khoa học, nhằm sao lưu mọi dữ kiện về các nhạc cụ dân tộc và dữ kiện liên quan như các bài bản dân ca đi kèm. Việc khảo cứu, lưu trữ này cần được thực hiện theo cách đặt hàng những nhạc sĩ, nhà nghiên cứu có trình độ, có tâm, có uy tín thay vì đưa về cho các đoàn thể, các hội.
Dễ hiểu, nhiều thập niên qua, các đoàn thể, các hội vẫn nhận được hỗ trợ từ Nhà nước để làm việc đó nhưng họ hoặc không làm, hoặc làm chống chế, không hiệu quả. Đa số dữ liệu thu được tốt nhất đều do các nhà nghiên cứu độc lập, trong đó nhiều người là những nhà nghiên cứu nước ngoài.
Thứ hai, phải có chính sách cực kỳ đặc biệt và ưu đãi cho các nghệ nhân còn sót lại chơi các nhạc cụ hiếm, đặc biệt là các nghệ nhân Tây Nguyên, Tây Bắc. Họ gần như là những cá nhân bậc thầy duy nhất còn có khả năng chơi một số nhạc cụ chuyên biệt đang đứng trước nguy cơ thất truyền hoàn toàn.
Tạo cho họ cơ chế đặc biệt để họ có thể an tâm truyền dạy lại nghề cho các sinh viên âm nhạc, các nhà nghiên cứu âm nhạc và từ đó, vốn kiến thức về các nhạc cụ ấy sẽ được lưu giữ cho nhiều thế hệ sau.
Song song đó, tất nhiên phải có cơ chế ưu đãi cho người học, những người dám dấn thân vì biết chắc theo đuổi gian khó này của họ sẽ không mang lại lợi ích kinh tế cá nhân trong tương lai. Thậm chí, theo đuổi ấy còn bắt họ phải đầu tư rất nhiều.
Cuối cùng, chính là cơ chế đặt hàng tác phẩm mới nhằm có thể tạo ra các buổi công diễn liên tục thường niên, vừa thu hút khách du lịch, vừa giữ lửa nghề cho những ai theo đuổi âm nhạc dân tộc, dòng nhạc vốn dĩ khó có khả năng mang lại danh vọng và tiền tài.
