“Tích đức cho con hơn tích của”!
Đó là một câu thơ Nguyễn Trãi viết trong bài “Thuật hứng 26”: “Tích đức cho con hơn tích của”. Đó cũng là quan niệm của truyền thống văn hóa Việt Nam, mà hôm nay phải có trách nhiệm học tập, kế thừa!
Giai thoại về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm kể, bố Nguyễn Bỉnh Khiêm là ông Nguyễn Văn Định ngâm câu: “Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung”. Cậu bé Khiêm mới 4,5 tuổi liền “đối” lại: “Vịn tay tiên, nhè nhẹ rung”. Ông chồng vui sướng kể với vợ (bà Nhữ Thị Thục) liền bị trách: “Mong con làm vua, sao lại mong làm bầy tôi”.
Theo quan niệm nhà Nho, chữ “nguyệt” tượng trưng cho phận bề tôi, bà bèn dạy con hát: “Bống bống bang bang, sau này con lớn con tựa ngai vàng”. Ông chồng hoảng sợ (vì triều đình nghe thấy sẽ đắc tội), bèn sửa lại:“Bống bống bang bang, sau này con lớn con vịn ngai vàng”. Chữ “vịn” khác hẳn nghĩa chữ “tựa”, biểu hiện hai “sự nghiệp” khác hẳn nhau.
Không ngẫu nhiên, giai thoại này gắn liền với Nguyễn Bỉnh Khiêm - nhà giáo dục lớn của dân tộc. Bởi hạt nhân ý nghĩa của nó muốn khẳng định một quan niệm khoa học: Sự giáo dục của cha mẹ mang tính định hướng cho sự phát triển tương lai và nhân cách con cái. “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”, là nói về trẻ ngoan. “Nhà dột từ nóc” là nói về trẻ hư. Liệu đúng thế chăng?
1. Là nhà văn hóa lớn, hiểu biết nhiều, trải nghiệm lắm qua nhiều được mất của thời thế và của chính mình, trong bài thơ “Mạn thành”, Nguyễn Trãi rút ra một chân lý: “Truyền gia hà dụng mãn doanh kim” (Truyền cho con cháu cần gì phải có đầy vàng). Với người Việt, “một kho vàng không bằng một nang chữ”, tức là truyền cho con cháu cái chữ hiểu biết, chủ yếu là hiểu biết đạo lý làm người.
Thơ Nguyễn Trãi bắt vào mạch nguồn truyền thống để đưa ra những triết lý về cuộc đời, như: “Họa phúc hữu môi phi nhất nhật” (Họa phúc có manh mối không phải một ngày - “Quan hải”). Để được phúc và tránh được họa thì phải biết giáo dục con cháu: “Nhi tôn chủng phúc lưu tâm địa” (Cho con cháu trồng cây phúc, để lại đất tốt, tâm tốt - “Mạn hứng I”).
Chỉ với chùm “Bảo kính cảnh giới” (Gương báu răn mình) có 61 bài, Nguyễn Trãi cũng đã thực sự là một nhà giáo dục với những triết lý hiện đại, khoa học mà hôm nay cần tiếp thu, kế thừa, phát triển.
Như triết lý về mối quan hệ hoàn cảnh: “Lân cận nhà giàu no bữa cám/ Bạn bè kẻ trộm phải đau đòn/ Chơi cùng đứa dại nên bầy dại/ Kết mấy người khôn học nết khôn” (Bảo kính cảnh giới 21). Hai câu đầu tiếp thu từ tục ngữ “Ở gần nhà giàu đau răng ăn cốm, ở gần kẻ trộm ốm lưng chịu đòn”, nhưng chữ “cám” Nguyễn Trãi dùng gần gũi, dễ hiểu hơn chữ “cốm” của tục ngữ. Hai câu sau có dấu vết ảnh hưởng từ “Gần mực thì đen gần đèn thì rạng” nhưng được cụ thể hóa hơn: tìm người khôn mà kết bạn.
Có những lời răn như dành cho hôm nay: “Cơm kẻ bất nhân, ăn ấy chớ/ Áo người vô nghĩa, mặc chẳng thà/ Khỏi triều quan mới hay ơn chúa/ Sinh được con thì cảm đức cha” (Trần tình 3). Ý thơ dễ hiểu: đừng đi theo, đừng a dua, a tòng, đừng phụ thuộc vật chất (cơm, áo) vào kẻ bất nhân bất nghĩa. Hai câu sau là quy luật quan hệ giữa cá nhân với hoàn cảnh. “Khỏi triều quan mới hay ơn chúa”, ra khỏi hoàn cảnh mới đủ độ lùi về thời gian, không gian để tư duy về hoàn cảnh. “Sinh được con thì cảm đức cha” là quan hệ giữa các tư cách khác nhau: phải trải nghiệm qua nhiều tư cách (sinh con tức làm cha) mới thấu hiểu và thấu cảm về từng vị thế (cha/con)...
2. Cùng là chữ “giới” (răn dạy), Nguyễn Trãi hướng vào thế giới nội cảm bên trong, chủ yếu tự răn mình; Lê Thánh Tông (tương truyền) có “Thập giới cô hồn quốc ngữ văn” hướng ngoại, răn “mười giới” cô hồn nhưng tập trung vào bốn loại: nho sĩ, thiên văn địa lý, hoa nương, đãng tử.
Giới đãng tử (những kẻ chơi bời lêu lổng, vô nghề nghiệp) bị phê phán nhiều nhất, tức bị răn dạy nhiều nhất. Buông thả theo thú vui, không chịu làm ăn, do vậy bị mỉa mai như những kẻ ăn chơi, học đòi, “mất gốc”: “Áo kẻ phải dáng Đông Kinh/ Tóc búi học người Bắc quốc”. Chạy theo “mốt” thị thành (Đông Kinh tức Hà Nội nay), rồi sùng ngoại, nệ ngoại vô lối (học người Bắc quốc).
Là những kẻ lười biếng, chỉ quen đàn đúm chơi bời: “Để trễ việc cửa việc nhà/ Lo lắng đánh đàn đánh đúm/ Thăm tìm quán khách, chơi bời dại nguyệt, dại hoa/ Đủng đỉnh cầu đình, lơ lửng đứng đường, đứng sá”. Thế nên dốt nát: “Ăn cà cuống lầm phải bọ hung/ Uống rượu thiêu lạt bằng nước lã/ Đánh cờ mo bàn chiếu, đi nước vịt nằm/ Đánh cầu chuối màng rơm, gảnh chân chó đái”.
“Rượu thiêu”, theo chú giải, là loại rượu ngon, nặng, cháy như cồn, thế mà kẻ “đãng tử” uống như uống nước lã, tức uống quá nhiều. Lời mỉa vật hóa “giới đãng tử”: “đi nước vịt nằm” tức nước cờ quá thấp (dân gian chê nước cờ kém thấp như vịt, ở đây là “vịt nằm”, tức còn thấp kém hơn). Đáng cười thay, khi chơi cầu cũng chẳng khác gì “gảnh chân chó đái”. Đằng sau sự chê trách ấy bật ra câu hỏi: bố mẹ chúng đâu, con cái nhà ai mà lại thế!?
Nhưng lại có những câu răn dạy thật giàu ước mơ, cũng thật thấm thía: “Thơm tho dòng Đậu cành đan quế/ Đầm ấm sân Điền khóm tử kinh/ Chớ chớ phen lê khi chử đậu/ Anh em thảo thuận phúc nhà lành” (Huynh đệ). Câu đầu có từ tích Đậu Vũ Quân thời Ngũ đại có 5 người con đều thi đỗ làm quan. Phùng Đạo nhà Tống mừng câu đối: “Linh xuân nhất châu lão, đan quế ngũ tri phương” (Một cây thông già, năm cành quế thơm).
“Sân Điền” có từ trong sách “Kim cổ kỳ quan” (Chuyện lạ xưa nay) kể, ba anh em Điền Chân đang ở một nhà, định ra ở riêng, bàn nhau hạ đốn cây tử kinh rất lớn giữa sân. Chưa đốn, cây tự nhiên rũ úa. Anh cả Điền Chân khóc nói: cây này cành lá hoa quả từ một gốc sinh ra, nay nghe nói bị chặt mà tự héo. Ba anh em ta từ một gốc sinh ra chả lẽ không bằng cây. Họ bỏ ý định chặt. Cây tự nhiên xanh tươi trở lại. Điển này dạy anh em đoàn kết, khác cành nhưng cùng cội.
Sách “Hán sử” có chuyện “Chử đậu” (nấu đậu) từ tích vua Tào Phi (đời Tam Quốc) bắt em ruột Tào Thực đi bảy bước phải làm xong bài thơ, không được sẽ bị chém. Thực khóc, vừa đi vừa đọc: “Nấu đậu để làm canh/ Lọc đậu để lấy nước/ Dây đậu đun đáy nồi/ Trong nồi hạt đậu khóc/ Cùng một gốc sinh ra/ Sao đốt nhau rát thế?”.
Lối dùng điển cố nói thâm thúy cái ý nhờ giáo dục tốt mà gia đình yên ấm, hòa thuận, bố mẹ hạnh phúc, con cái tài năng. Lại có những giáo huấn vượt thời gian, mang tính chân lý phổ quát: “Ngày ngày gội tắm nhơ đâu bén/ Tháng tháng dùi mài đá ắt mòn…/ Lời năng nói là năng oán/ Biết đổi cho ai dạy dỗ con?” (Giáo tử). Các câu trên là lời khuyên, lời nhắc. Câu hỏi cuối là đạo lý: sinh con phải dạy con! Đó là tình thương và nghĩa vụ, bổn phận và trách nhiệm của bất kỳ ai.
3. Với quan niệm nhìn trẻ em là biết nền nếp gia đình, Nguyễn Bỉnh Khiêm phê phán loại thiếu niên chơi bời, đưa ra một cảnh tỉnh: gia đình thiếu quan tâm con cái sẽ dẫn đến hậu quả (trong bài “Nguyên đán thuật hoài thi”): “Gia đình vô giáo tiếu si nhi” (Gia đình không có giáo dục, (người đời sẽ) cười lũ con si ngốc). Triết học giáo dục hiện đại không mới hơn Trạng Trình khi có quan niệm tương tự.
Trạng Trình còn cụ thể hơn khi cho rằng với trẻ hư, không ngăn chặn sẽ sớm sa vào con đường trộm cướp: “Bề ngoài trang điểm mỹ miều/ Bên trong giấu bọc gian trá/ Đường đường con cái nhà/ Ngày ngày toàn chuyện đùa cợt/ Tụm nhau vui chơi buông tuồng/ Trăm ngón nghề chỉ thích trò hoang toàng ngang ngược” (Hữu cảm).
Sự ăn chơi đua đòi quá đáng là biểu hiện của sự tha hóa nhân cách, sự xuống cấp đạo lý: “Đem ngàn vàng mua một tiếng cười/ Đem vạn tiền đổi một tiệc rượu/ Thâu đêm đánh đàn thổi sáo/ Cả ngày uống rượu đánh bạc/ Bị người sỉ nhục, phỉ nhổ vào mặt” (Hữu cảm). Đứng từ góc độ mỹ học đạo đức hài hòa, nhà thơ đưa ra triết lý sống: “Ở đời cứng cổ nên ruồng rẫy/ Vì bạn say sưa bạn thốn thê” (“Bài 145”, thơ Nôm). Những kẻ “cứng cổ” xấu tính, thiếu sự giáo dục, không nghe lời tốt, nanh nọc, nên rời bỏ. Những kẻ “say sưa” thường không làm chủ được mình, cũng chẳng nên chơi.
4. Có lẽ cần hiểu câu tục ngữ: “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà” theo nghĩa rộng, chỉ nguyên nhân con “hư” là do “nếp nhà”, nhưng trước hết là do “mẹ”, do “bà” - những người gần gũi nhất. Hiện dư luận đang gióng lên tiếng kêu “khoảng trống giáo dục” gây ra những tiêu cực học đường đáng lo ngại. Phải chăng chúng ta đã tự “đứt gãy” với truyền thống cha ông theo nguyên tắc ngược lại: “Tiên học văn, hậu học lễ”. Thậm chí “lễ” cũng rất coi “nhẹ”!?
