Thi pháp nghệ thuật trong thơ miền núi của Đỗ Thị Tấc

Thứ Sáu, 07/11/2025, 13:44

Tôi gặp lại nhà thơ miền núi Đỗ Thị Tấc trong cuộc hội thảo về văn học Việt Nam đương đại đầu tháng 10/2025. Vẫn dáng người mảnh khảnh, năng động, chị tung tăng chào hỏi bạn bè văn chương khắp lượt. Những năm qua, nhà thơ nữ - nhà nghiên cứu văn hóa này mải mê với công việc xây dựng Bảo tàng Văn hóa Thái ở Lai Châu.

Phát biểu trực cảm ngay tại hội thảo, Đỗ Thị Tấc tuyên bố: Không hề sợ trí tuệ nhân tạo AI, vì nó như một thư viện khổng lồ chứ không thể sáng tạo văn chương được như trí tuệ con người, nhưng điều đáng sợ nhất hiện nay trong giới văn chương là người ta hay nói xấu nhau, bôi bác tác phẩm của nhau nhiều quá và đấy là một tấn bi - hài kịch của văn chương đương đại. Ý kiến này của chị được nhiều nhà văn đồng cảm.

do-thi-tac.jpg -0
Nhà thơ Đỗ Thị Tấc.

Cho đến nay, ở vùng Tây Bắc, có lẽ nhà thơ Đỗ Thị Tấc là nhà nữ nghiên cứu văn hóa “Thái học” duy nhất. Cuối năm 2012, một công trình nghiên cứu của chị về văn hóa dân tộc Thái đã được trao giải thưởng của Hội Liên hiệp VHNT toàn quốc. Chuyện nữ nhà thơ về học cao học ở Trường Đại học Văn hóa (Hà Nội) đã trở thành giai thoại.

Đỗ Thị Tấc nói vui: “Mình vừa nhận được hai chục triệu đồng tiền giải thưởng là phải trả nợ hết ngay! Các ông thử tính xem, lương của tôi được dăm triệu bạc, đi học cao học ở dưới này, tuần nào cũng phải ngược về Lai Châu thăm mẹ, thăm con và sắp xếp công tác Hội… thì không phải vay mới là chuyện lạ! Cái số tôi nó thế, lúc sắp khánh kiệt thể nào cũng có người giúp đỡ. Hai lần trước tôi được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam và Hội VHNT các dân tộc thiểu số cho 2 tập thơ, cũng là lúc đang nợ đầm đìa, tôi phải cắm sổ đỏ vay dăm triệu đồng trang trải cho mấy chuyến công tác… ”.

Đưa giọng điệu và mỹ cảm người Thái vào thơ hiện đại

Đọc thơ của Đỗ Thị Tấc mới thấy các bài thơ của chị như những lát cắt tinh tế và sâu sắc về đời sống miền núi nơi hội tụ giữa thiên nhiên hùng vĩ, tâm hồn mộc mạc, và cảm xúc nguyên sơ của con người vùng cao. Qua đó, ta có thể nhận diện rõ nét phong cách thơ miền núi đặc trưng của Đỗ Thị Tấc giàu tính bản địa, đậm chất dân gian, chân thực mà không kém phần tinh tế trong biểu hiện tâm lý và cảm xúc con người.

Trong dòng chảy thơ Việt đương đại, tiếng nói từ miền núi với nhịp rừng, mùi khói bếp, tiếng khèn, vòng xòe, nhà sàn và nương rẫy không chỉ là bối cảnh mà đã trở thành một “môi trường thi pháp” riêng. Đỗ Thị Tấc là một trong những gương mặt tiêu biểu đặt bút trên cái nền ấy, đưa giọng điệu và mỹ cảm của người Thái vào thơ hiện đại bằng sự tự nhiên giàu bản sắc. Trong các bài thơ của mình, chị đã xuất lộ một hệ hình nghệ thuật vừa mộc mạc vừa tinh tế khi tình yêu không tách rời đời sống, vẻ đẹp phồn thực gắn với đạo lý bản mường, sự ấm áp tình người đan vào hiện tại và ký ức.

Tôi rất ấn tượng với bài thơ “Anh bơi trên đệm tìm em” của chị: “Cha mẹ nghèo/ Cho anh con dao/ Anh tra vào bao tre/ Về nhà em ở rể/ Nhà em/ bạc hũ/ Nhà em/ Trâu đàn, lợn lũ/ Ruộng gần, nương xa/ Quanh năm/ Đi dẵm gà/ Về dẵm quạ/ Anh vẫn vui lòng/ Anh vẫn say tình/ Ngủ đệm cùng em/ Đêm qua, em quên lời tổ tiên/ Ngủ đệm đừng nói chuyện tình xưa/ Anh bỗng sững sờ/ Trong vòng tay anh, em lại mơ về người tình cũ/ Thác lũ cuốn hồn anh/ Cuốn cơn khát trong tình anh/ Cuốn em đi rồi/ Anh bơi trên đệm tìm em/ Ôm phải tình xưa của người đàn ông khác”.

Bài thơ mở ra bằng giọng kể dân dã, như một lời tâm sự của người trai miền núi bước vào hôn nhân trong nghèo khó với cái hồn hậu trong lối sống giản dị. Nhưng phía sau cái hồn nhiên ấy la âbi kịch của lòng người khi tình yêu không đủ sức ngăn cản quá khứ và những ám ảnh cũ: “Trong vòng tay anh, em lại mơ về người tình cũ/ Thác lũ cuốn hồn anh…”.

Câu thơ “Anh bơi trên đệm tìm em” là một hình ảnh rất thơ, vừa kỳ lạ vừa dữ dội. Ở đây, chất thơ miền núi hiện ra qua ngôn ngữ mộc mạc mà đa nghĩa, qua cảm xúc nguyên sơ, không tô vẽ, không triết lý cầu kỳ chỉ có nỗi đau thật của một người đàn ông thật. Đỗ Thị Tấc trong bài này cho thấy năng lực diễn tả cảm xúc bản năng bằng chất liệu dân gian, tạo ra một hiện đại tính trong cái nền mộc mạc, bản địa.

Trong thơ Đỗ Thị Tấc, không gian không đơn thuần là phông nền mà là “cái nôi” tạo nghĩa với bản, mường, nhà sàn, nương, suối, rừng, trăng xuất hiện với tần suất dày đặc, kết liên thành một trường cảm giác, âm thanh, ánh sáng.

Trong bài thơ “Người ơi”, chỉ vài nét khắc họa đã mở ra thế giới bản địa: “Nhà tôi ở lưng đồi/ Bé nhỏ như nốt ruồi núi/ Chiếu hẹp đủ ngồi/ Bát con đủ rượu/ Tiếp khách đủ lòng”. Cấu trúc liệt kê “đủ” đưa ta vào mỹ học vừa ít vừa đủ, trọng nghĩa tình với một “chủ nghĩa tối giản” của miền núi, nơi giá trị được đo bằng lòng hiếu khách và câu hát giao duyên, không đo bằng độ sang trọng của vật dụng.

Tôi có mấy lần được ngắm Đỗ Thị Tấc ngồi hút thuốc lá và “giả đò” uống rượu ngang tàng như đàn ông (hoặc có thể chị cố vẻ làm ra thế), và thấy trên gương mặt thanh tú của nữ nhà thơ này phảng phất những nét hào hoa đang phát lộ ra như để khẳng định rằng, hồi còn trẻ, người nữ này cũng khá xinh đẹp và chắc chắn là có khối anh phải lòng muốn đi theo.

Thế cho nên, lúc tuổi đang còn thanh xuân, chị đã làm một bài thơ tình hay dữ dội với những câu thơ thật “gợi tình” như sau: "Người ta nhìn vào thắt lưng/ Trợn mắt/ Người ta nhìn hàng cúc bướm/ Lườm như muốn ăn thịt/ Người ta nhìn vào mắt/ Bỏ đi/ Không nói ra thì không chịu được/ Nói rằng thương/ Không phải/ Nói rằng nhớ/ Không đúng/ Nói rằng yêu/ Làm gì.../ Nói ra rồi cũng không chịu được/ Người như trăng no muốn vỡ/ Ra suối cởi thắt lưng/ Bung hàng cúc bướm/ Vắt lên đầu/ Lội dòng nước sâu/ Trốn vào nước/ Trăng vỡ loăng ngoăng/ Buồn cả ngực/ Tức cả mắt/ Buồn cả ngực/ Tức cả mắt/ Thế này thì chết mất/ Chẳng biết mai/ Người ta có sang".

Ở đoạn thơ này, một giọng nữ hiện lên táo bạo mà chân thực và sự trực ngôn thân thể không phải để phô diễn mà là mỹ học phồn thực có gốc văn hóa từ suối đến trăng rồi thắt lưng và hàng cúc bướm, đây chính là trường ẩn dụ về năng lượng sinh sôi.

Người phụ nữ là trung tâm cảm xúc của thế giới thơ

Thời gian nghệ thuật trong thơ Đỗ Thị Tấc mang tính chu kỳ theo mùa vụ gieo mầm, gặt hái và sinh nở. Trong bài thơ “Những người mẹ núi” chị khắc họa hình tượng này: "Cõng hạt giống trên lưng/ Địu con thơ trước ngực/ Qua ba cánh rừng/ Mẹ lên nương/ Mặt trời chưa thức/ Hạt giống gieo vào đất/ Con thơ ngon giấc lán nương/ Tra hạt xong ôm con/ mẹ hát/ Xin trời mưa cho hạt lên mầm/ Xin trời thương cho cây nhiều hạt Sống/ Nuôi lũ trẻ lớn lên thành trai bản gái mường/Mùa gặt/ Cõng hạt sống trên lưng/ Địu con thơ trước ngực/ Đầu mẹ đội nắng, mưa, sấm, chớp/ Qua ba cánh rừng/ Về bản cùng trăng/ Những người mẹ núi /Xin gì cho riêng mình".

Đây là khúc ca về tình mẫu tử và sức sống cộng đồng miền núi. Hình ảnh dáng đi của người mẹ núi không chỉ là lao động, mà còn là hành trình nối dài sự sống với hạt giống và đứa con là hai biểu tượng song hành. Ngôn ngữ thơ giản dị, nhịp ngắn, cấu trúc lặp khiến bài thơ mang nhịp điệu như một bài hát ru hay một khúc dân ca Mường - Thái.

Điều đáng quý là Đỗ Thị Tấc không tô hồng hiện thực. Người mẹ ấy chịu đựng nắng, mưa, sấm, chớp nhưng “Những người mẹ núi/ Xin gì cho riêng mình”. Câu kết đầy nhân văn, gợi tấm lòngvị tha, hiền hậu, giàu đức hy sinh, đồng thời thể hiện cái nhìn trân trọng của tác giả với người phụ nữ vùng cao như một biểu tượng của sức sống và niềm tin.

Điểm đáng chú ý trong thế giới thơ này, người phụ nữ vừa là trung tâm cảm xúc, vừa là trụ cột sinh kế, vừa là kho lưu trữ ký ức cộng đồng. Nhưng tình yêu trong thơ Đỗ Thị Tấc không chỉ là mơn man, nó có cả ghen tuông, khao khát và giận hờn nhưng đều đặt trong khuôn đạo lý bản mường.

Đọc thơ Đỗ Thị Tấc ta thấy sự đóng góp cho thi pháp nghệ thuật thơ miền núi với bản địa hóa mỹ cảm hiện đại khi đưa giọng điệu Thái vào tiếng Việt đương đại mà không “phỏng dân tộc học” với sự hòa nhập tự nhiên, làm chất liệu cho thi pháp. Thơ chị với giọng nữ chủ thể là tiếng nói nữ tự tin, giàu tự ý thức thân thể, song vẫn tinh khiết. Nhờ những yếu tố ấy, thơ Đỗ Thị Tấc vừa có cái nhìn sâu sắc về đời sống và tình yêu, vừa ấm áp tình người, như đề tài chị gửi gắm.

Đỗ Thị Tấc đã đem đến cho thơ Việt một giọng điệu riêng với nữ tính mộc mạc, thấm đẫm hồn núi rừng và văn hóa dân gian. Bài thơ “Anh bơi trên đệm tìm em” là tiếng thở dài của tình yêu nhục cảm; “Những người mẹ núi” là khúc ru về sự sống và hy sinh.

Các bài thơ đều vang vọng tâm hồn miền núi, nơi con người sống chan hòa với thiên nhiên, chân thật với cảm xúc. Đó chính là độ dày thi pháp của một tiếng thơ miền núi với giọng núi, hơi thở bản mường đã góp một sắc âm riêng đáng trân trọng vào hợp xướng thơ Việt hôm nay.

Nguyễn Việt Chiến
.
.