Nhà thơ Phạm Hầu - Đặt mình trên cánh gió

Thứ Bảy, 09/08/2025, 16:37

Nhà thơ Phạm Hầu là một trong 46 gương mặt xuất hiện trong công trình nghiên cứu thi ca đặc sắc “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân. Đáng tiếc, cuộc đời ngắn ngủi trên dương gian khiến sự nghiệp Phạm Hầu cũng chìm khuất theo năm tháng. Bây giờ, những ai nhớ đến nhà thơ Phạm Hầu vẫn thấy nhiều điều thú vị khi tìm hiểu về ông.

Nhà nghiên cứu Tống Phước Quang vừa công bố tư liệu đầy đủ về sinh viên 18 khóa của Trường Mỹ thuật Đông Dương từ năm 1925 đến năm 1945. Tổng cộng, 149 sinh viên trúng tuyển, chỉ có 128 sinh viên tốt nghiệp. Đáng chú ý, trong số 21 sinh viên ngưng học giữa chừng, có hai nhân vật về sau nổi danh lĩnh vực văn chương là nhà văn Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam, 1906-1963) và nhà thơ Phạm Hầu (1920-1944).

Trước đây, vài thông tin cũng nhắc đến việc theo học Trường Mỹ thuật Đông Dương của nhà văn Nhất Linh và nhà thơ Phạm Hầu, nhưng khá mơ hồ. Hiện nay, dựa vào danh sách sinh viên cụ thể của Trường Mỹ thuật Đông Dương, có thể xác định nhà văn Nhất Linh học khóa 1 (1925-1930) cùng các tên tuổi Nguyễn Phan Chánh, Lê Văn Đệ, Lê Phổ, Mai Trung Thứ… Còn nhà thơ Phạm Hầu học khóa 13 (1939-1944) cùng các tên tuổi Phạm Văn Đôn, Nguyễn Thị Kim, Huỳnh Văn Thuận, Nguyễn Sỹ Ngọc...

nha tho pham hau.jpg -0
Chân dung nhà thơ Phạm Hầu do AI vẽ lại.

Nhà văn Nhất Linh rời bỏ Trường Mỹ thuật Đông Dương để sang Pháp du học từ năm 1927, đó là một sự chọn lựa chủ động. Ngược lại, nhà thơ Phạm Hầu dang dở giấc mơ hội họa vì bị bệnh động kinh từ năm 1942. Nếu nhà văn Nhất Linh có sự nghiệp lừng lẫy gắn bó Tự Lực văn đoàn, thì nhà thơ Phạm Hầu có sức phổ cập công chúng khiêm tốn hơn. Nhà thơ Phạm Hầu có mặt trong “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân với hai bài thơ “Chiều buồn” và “Vọng Hải đài”. Sức lan tỏa “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” giúp độc giả nhớ đến Phạm Hầu qua hai câu thơ “Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận/ Chẳng biết xa lòng có những ai”.

Tháng 10/1941, Hoài Thanh - Hoài Chân nói về Phạm Hầu: “Ở đời có những người nói to bước vững. Phạm Hầu quyết không phải trong hạng ấy. Ở giữa đời, Phạm Hầu là một cái bóng, chân đi không để dấu trên đường đi. Người còn mải sống với mình và con người ta tưởng không có gì là một người giàu vô hạn. Lòng người là cả một vọng hải đài, người chỉ việc đứng trên đài lòng mà ngắm, qua lại thiếu gì mây sớm gió chiều”.

Rõ ràng, khi “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” ra mắt, nhà thơ Phạm Hầu chỉ đăng rải rác vài bài thơ trên ấn phẩm “Tao đàn” và “Mùa gặt mới”, nhưng vẫn có được cảm tình của Hoài Thanh - Hoài Chân. Có một điều “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” không đề cập là bài thơ “Vọng Hải đài” gửi gắm tâm sự của nhà thơ Phạm Hầu với quê hương Quảng Nam. Bởi lẽ, đài Vọng Hải là một địa danh quen thuộc với người Quảng Nam, mà nhà thơ Chế Lan Viên trong bài thơ "Hội An" viết năm 1988 cũng tha thiết: “Thế rồi ta xa nhau/ Anh lên đài Vọng Hải/ Tìm em mùa hoa dại/ Hoa đây còn em đâu?”.

Nhà thơ Phạm Hầu sinh ra trong một gia tộc danh giá, với người cha là danh sĩ Phạm Liệu (1873-1937, từng giữ chức Thượng thư Bộ binh của triều Nguyễn). Thế nhưng, nhà thơ Phạm Hầu bất hạnh đoản mệnh ở tuổi 24.

Khi từ miền Trung ra học Trường Mỹ thuật Đông Dương, nhà thơ Phạm Hầu mang theo nhiệt huyết nghệ thuật: “Người ta tưởng rằng bây giờ không có một bài thơ nào hay hơn thơ Đường cả, hay những bức tranh đẹp hơn những bức tranh ở Londers. Người ta quên rằng chim hạc đã nhường chỗ cho phi cơ. Tôi trách những con mắt cứ quay lại ngắm nghía những cảnh cũ, mà không hề tin tưởng ở tương lai. Đừng lầm nghệ thuật với khoa khảo cổ! Kính trọng kẻ đi trước đã mở đường cho ta, nhưng không phải đến cái bước cuối cùng của họ, ta không bước thêm bước nào nữa”.

Đồng thời, nhà thơ Phạm Hầu thời đôi mươi cũng đã có thái độ sáng tạo khá mạch lạc: “Cái quan niệm cho nghệ thuật là một trò chơi không thể đứng được nữa. Nhà nghệ thuật không là một đứa trẻ vô tư trong trò chơi. Nghệ sĩ không thể không đau khổ, nhưng cái đau khổ của họ là cái mầm nảy nở của tư tưởng. Cái đau khổ ấy không phải là một thất vọng, chính là một công việc giải phẫu mà nghệ sĩ phải chịu để bào thai một tác phẩm”.

Những năm tháng theo học Trường Mỹ thuật Đông Dương, nhà thơ Phạm Hầu được gia đình thuê cho một căn phòng nằm trong một biệt thự ở Hà Nội. Căn phòng của nhà thơ Phạm Hầu nằm đối diện căn phòng của nữ sinh xứ Huế Phùng Thị Cúc (về sau trở thành nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị). Vì đang si mê Phùng Thị Cúc, nên nhà thơ Lưu Trọng Lư đã xin ở ké với nhà thơ Phạm Hầu.

Trong căn phòng ấy, nhà thơ Lưu Trọng Lư đã viết bài thơ “Người em sầu mộng” để tặng Phùng Thị Cúc, còn nhà thơ Phạm Hầu suy tư: “Những giá trị của tình nhân là biết ngồi bên người yêu và cũng biết đứng trước kẻ địch. Hôm nay, tôi ngồi ở đây, giữa một thành phố lớn và cổ của nước tôi, bỗng yêu mến cái cảnh tường vàng kia hơn cả tiếng đàn”.

Ngoài hai bài thơ “Chiều buồn” và “Vọng Hải đài” được Hoài Thanh- Hoài Chân tuyển chọn, nhà thơ Phạm Hầu đầu thập niên 1940 cũng có một số bài thơ khác, như bài thơ “Chiếc khăn tay” nuối tiếc tình yêu đôi lứa “Đây cảnh đôi người đang vĩnh biệt/ Mờ mờ trong khói lẫn trong mây/ Đây là tiếng dội lòng tê liệt/ Lúc bướm mang vàng lả tả bay/ Buồn vui sau trước kết thành dây/ Ký ức bao năm góp một ngày/ Ta muốn đừng nghe lời kể lể/ Của màu khăn lụa ở trên tay” hoặc bài thơ “Màu đỏ đang rung” so sánh nỗi ám ảnh hoa phượng những ngày ông học Trường Quốc học Huế và hoa gạo trên đất Bắc: “Hoa phượng Hương Giang/ Hoa gạo Nhị Hà/ Sầu trưa hong mang/ Hai trời hoa đỏ…/ Ai đọc thơ tôi/ Đóng giùm cửa ngõ/ Trời xanh của tôi/ Muôn đời hoa đỏ”.

Năm 1968, bộ sách “Việt Nam thi nhân tiền chiến” của Nguyễn Tấn Long - Nguyễn Hữu Trọng do Nhà xuất bản Sống mới xuất bản tại Sài Gòn, đã hé lộ nhà thơ Phạm Hầu qua đời ngày 3/1/1944 trên chuyến xe lửa từ Hà Nội trở về quê nhà Quảng Nam. Giữa đoạn đường Đồng Hới và Huế, “ông vĩnh biệt cõi đời không một lời trối trăn, vì người tải bệnh tuy cùng đi chung một chuyến tàu, nhưng phải mua vé ở hạng khác. Cái chết của Phạm Hầu cũng lặng lẽ như cuộc đời của thi nhân. Kịp khi phát giác, người soát vé bắt buộc người thân đem xác ông xuống ga Truồi. Người nhà thuê thuyền đưa ông về Huế an táng sau một ngôi chùa cổ ở vùng Nam Giao, trên một trái đồi nhỏ”.

Năm 2001, Nhà xuất bản Thanh niên ấn hành tập thơ “Vẫy ngoài vô tận” của nhà thơ Phạm Hầu, do Hoàng Minh Nhân sưu tầm. Nhờ vậy, công chúng biết thêm hơn 20 bài thơ mang dấu vết tài hoa Phạm Hầu. Bài thơ “Thu”, ông viết bằng thể lục bát trữ tình: “Này đây ai ghé thăm nhà/ Hiên vàng vắng vẻ trúc già xác xơ/ Này đây gái đẹp đang mơ/ Trên mi còn đọng nét mờ suối thu”. Bài thơ “Trên cánh gió”, ông bày tỏ niềm quạnh quẽ “Cho ta đặt mình trên cánh gió/ Để thực hành cho được ý tim yêu/ Để rồi đây bao nhiêu lòng biết rõ/ Rằng lòng ta là giọt máu đìu hiu”. Bài “Vọng lâu”, ông không giấu nỗi xót xa “Lầu đứng bơ vơ lầu vắng vẻ/ Lầu mơ đàn địch tiếng lầu xưa/ Thẩn thờ lá trúc rưng rưng lệ/ Như mắt đa tình lúc tiễn đưa”.

Nhà thơ Phạm Hầu từng dồn sức theo đuổi hội họa, như ông nung nấu: “Đừng đem vào nghệ thuật cái đức tính “nhẫn” để mô phỏng cảnh vật từng li từng tí, tô chuốc mãi cho đến lúc bức tranh nặng nề như sự thật mới thôi”. Thế nhưng, định mệnh không cho phép ông tiếp tục theo học Trường Mỹ thuật Đông Dương, nên ông quay lại với thi ca.

Những vần điệu cuối đời, nhà thơ Phạm Hầu khao khát: “Tôi theo tư tưởng vô cùng tận/ Chỉ gặp vô cùng nỗi quạnh hiu/ Sáng sớm: rạng đông, chiều: chạng vạng/ Những giờ mới lạ có bao nhiêu?”. Chống chọi sự đau yếu dày vò, nhà thơ Phạm Hầu hoang mang “Tuổi tôi - chiếc lá, ai sinh trước/ Hiu hắt đôi bên lúc đọ màu”, nhưng ông vẫn có bài thơ “Mãi dâng trọn hồn vui” mong mỏi cống hiến: “Nếu tôi đau mà người được tin yêu/ Trang sách nhỏ nâng niu hồn xứ lạ”.

Nhà thơ Phạm Hầu có một số phận cay đắng, nhưng ông vẫn để lại cho cõi đời nhiều niềm thương mến. Giấc mơ hội họa của ông đành dang dở, còn hành trình thi ca của ông “đặt mình trên cánh gió” vẫn đáng để hậu sinh trân trọng “Một cột đèn cao mơ góa bụa/ Đường dài toan nối hận gian truân”.

Lê Thiếu Nhơn
.
.