Nhà thơ Chế Lan Viên trong ký ức nhà văn Lê Hồng Thiện

Thứ Sáu, 17/10/2025, 15:07

Nhân kỷ niệm 105 năm ngày sinh nhà thơ lớn Chế Lan Viên (20/10/1920 - 20/10/2025), nhà văn Lê Hồng Thiện vừa ra mắt cuốn sách “Chế Lan Viên trong tôi” do NXB Tri thức ấn hành với ký ức như một mạch nguồn của văn chương tri ân.

Cuốn sách này không chỉ là một tiểu luận, một hồi ký cá nhân, mà là một hành trình tri ân và chiêm nghiệm về một người thầy, một người bạn lớn là nhà thơ Chế Lan Viên. Ở đó, văn phong Lê Hồng Thiện dung dị mà gần gũi với lời kể giàu nhân tình, cách dựng truyện mềm mại, gần như một cuộc trò chuyện giữa hai tâm hồn tri âm.

ành nhà tho ch- lan viên nam 40 tu-i.jpg -2
Nhà thơ Chế Lan Viên năm 40 tuổi.

Lê Hồng Thiện kể lại chuyện, năm 1962, khi còn là một cậu học sinh cấp ba mới tập tọe làm thơ, đã có may mắn gặp nhà thơ Chế Lan Viên khi ông 43 tuổi, đang về thực tế sáng tác tại tỉnh Hưng Yên, từng ở nhà tác giả gần một tháng.

Câu chuyện giữa nhà thơ lớn và cậu học sinh cấp ba sau này cũng trở thành nhà thơ, đã được kể lại trong cuốn sách dày 290 trang với nhiều câu chuyện nhỏ khá thú vị như “Nhà thơ Chế Lan Viên nhờ giảng hay lấy được vợ đẹp”; “Nhà thơ Chế Lan Viên nóng tính trong đời thường, khó tính trong đời thơ”; rồi “Xuân Diệu ngại… Chế Lan Viên”…

Và như tác giả cho biết, tập sách “Chế Lan Viên trong tôi” chủ yếu tập hợp các bài viết bình luận, giới thiệu thơ Chế Lan Viên và các bài sưu tầm giai thoại về Chế Lan Viên.

Cách kể chuyện giản dị, chân thành - giọng văn của ký ức

Trong cuốn sách này, nhà văn Lê Hồng Thiện không chọn lối kể chuyện cầu kỳ mà mở ra bằng những kỷ niệm giản dị như một buổi nói chuyện thơ, một câu hỏi tự đặt ra, một niềm yêu thơ khởi đầu từ thuở học trò.

Ngay từ đầu, người kể đã đặt mình trong vị thế người tri kỷ của nhà thơ, không tôn sùng, cũng không tô vẽ “Nếu các bạn hỏi tôi: các nhà thơ thời Thơ Mới 1930-1942 anh yêu nhà thơ nào nhất? Tôi chọn Chế Lan Viên”.

Câu chuyện tiến triển tự nhiên, như dòng hồi tưởng tự chảy. Nhà văn không “kể chuyện” theo nghĩa tiểu thuyết hóa, mà là truyền lại cảm xúc của một người được chứng kiến và được sống cùng thời với một thiên tài. Giọng văn gần gũi, dung dị, tự nhiên như lời kể của một người bạn cũ và chính điều đó tạo nên độ tin cậy và sức hút nhân văn cho tác phẩm.

Sự giản dị ấy là một chủ ý nghệ thuật. Nó giúp người đọc tiếp cận Chế Lan Viên không phải như một tượng đài, mà như một con người có đời sống, có cá tính, có những niềm vui, nỗi buồn và cả những “nóng tính”, “khó tính” rất thật. Chính cách kể không phô trương mà ấm áp này làm nên chất “người” trong văn phong Lê Hồng Thiện.

-nh t-p sách ch- lan viên trong tôi.jpg -0
Bìa cuốn sách “Chế Lan Viên trong tôi”.

Điểm dễ thấy của “Chế Lan Viên trong tôi” là nghệ thuật khắc họa con người thông qua những chi tiết nhỏ nhưng giàu sức gợi. Chế Lan Viên hiện lên không phải qua danh vị, mà qua những hành vi, cử chỉ rất người khi ông treo biển “Xin để khi khác, tôi rất bận” trên bàn làm việc, một chi tiết nhỏ nhưng biểu hiện cả tinh thần lao động nghệ thuật nghiêm cẩn, nỗi sợ lãng phí thời gian của người làm thơ suốt đời say việc. Nhà thơ say hoa hơn rượu, để “hoa thấm vào máu thịt” và “làm thơ về hoa còn thơm thảo hơn hoa” như một hình ảnh biểu tượng cho tâm hồn thi sĩ luôn tìm cái đẹp trong điều bình dị.

Ông dạy “phải học một ngoại ngữ, không thì có hai mắt mà chột một mắt”, một lời khuyên mộc mạc mà sâu sắc, thể hiện triết lý học tập và tầm nhìn văn hóa của một trí thức lớn. Chính nhờ lối viết quan sát từ đời thường, mà Lê Hồng Thiện tạo được một chân dung sống động, đa diện, vừa đáng kính vừa thân thuộc. Ông không ca ngợi Chế Lan Viên bằng mỹ từ, mà để nhân cách và tài năng của ông tự tỏa sáng qua từng chi tiết nhỏ.

Một trong những nét nổi bật của văn phong Lê Hồng Thiện là giọng kể đằm thắm, pha chút bùi ngùi của ký ức, nhưng không bi lụy. Những đoạn viết về làng quê, về “canh cá trâu mẹ thường hay nấu khế” hay “bài thơ Kết nạp Đảng trên quê mẹ”vừa dân dã vừa thiêng liêng, khiến người đọc cảm nhận được tình yêu sâu sắc của Chế Lan Viên dành cho mẹ, cho quê hương và cho đất nước. Ở đó, Lê Hồng Thiện như một người viết ký bằng trái tim của người con cùng quê với thi nhân, để lại những trang văn thấm đẫm nỗi hoài niệm và lòng trân trọng.

Giọng kể ấy nhiều lúc chuyển sang tự sự pha triết lý, khi ông bình về thái độ làm thơ của Chế Lan Viên: “Ông làm vườn cần mẫn để có hoa bằng thơ”, hay “Anh phải tạo ra mùa từ số ngày còn lại trên trái đất”. Đó không chỉ là lời tả, mà là sự suy tư về giá trị của lao động nghệ thuật, về thời gian và sự sống như một tầng nghĩa khiến truyện ký vượt ra ngoài kỷ niệm cá nhân, trở thành một áng văn suy tưởng về nhân cách nghệ sĩ.

Nghệ thuật dựng chân dung qua chi tiết đời thường

Khác với lối hồi ký thông thường, “Chế Lan Viên trong tôi” có cấu trúc tự nhiên, kết hợp giữa kể - tả - bình - hồi tưởng, khiến người đọc cảm thấy như được tham dự vào câu chuyện. Tác giả luôn đặt mình ở vị thế người trong cuộc, quan sát bằng cảm xúc hơn là lý trí, nhưng vẫn giữ được độ xác thực của tư liệu.

Ví dụ, khi kể lại thời gian Chế Lan Viên ở nhà mình tại xã Lam Sơn, Hưng Yên, ông ghi lại tỉ mỉ những cuộc họp hợp tác xã, những ghi chép của nhà thơ, những buổi dạo đê sông Hồng và những lời khuyên chân tình. Từng chi tiết được chắt lọc có chủ đích, không sa vào kể lể, mà góp phần tái hiện chân thực đời sống và tinh thần của thời kháng chiến và xây dựng đất nước.

Ở bình diện nghệ thuật, Lê Hồng Thiện thể hiện sự tiết chế của người viết ký hiện đại. Ông không đẩy cảm xúc lên cao trào, không dùng ngôn ngữ ước lệ hay khoa trương, mà chọn lối viết tự nhiên, có tiết tấu, có khoảng lặng. Những khoảng lặng đó khiến người đọc cảm nhận được chiều sâu tâm tưởng, sự suy tư lặng lẽ của người tri kỷ trước bóng dáng người đã khuất.

nhà tho lê h-ng thi-n.jpg -1
Nhà văn Lê Hồng Thiện.

Điểm nổi bật khác là cách Lê Hồng Thiện để thơ xen vào văn, làm cho truyện ký có nhịp điệu như một bài thơ dài. Ông trích thơ của Chế Lan Viên không chỉ để minh họa, mà như để tạo đối thoại giữa hai tiếng nói - người viết và người được viết. Khi nhắc đến câu thơ “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”, đó là lời khởi đầu cho một chuỗi cảm xúc nối liền hai thế hệ thi sĩ.

Giọng văn của Lê Hồng Thiện vì thế mang tính liên văn bản, đan xen thơ và ký, đời và mộng, lý trí và cảm xúc. Như trong đoạn ông viết: “Chế Lan Viên tài năng do sự thông minh, tự học, tự đọc và học ở quần chúng... như con ong cần cù để làm nên hương thơm mật ngọt dâng hiến cho đời”. Hình ảnh “con ong làm mật” là biểu tượng của một tư duy thơ, được chuyển hóa tự nhiên vào văn xuôi, cho thấy cái nhìn thơ hóa về hiện thực. Tác phẩm của Lê Hồng Thiện, vì thế, mang tính giao thoa giữa văn xuôi ký và tinh thần thi ca, giống như một khúc hòa tấu giữa cảm xúc và trí tuệ.

Tầng sâu nhất của “Chế Lan Viên trong tôi” là tinh thần nhân văn tri ân và gìn giữ ký ức văn học. Lê Hồng Thiện viết không để tôn vinh bản thân, mà để lưu giữ bóng dáng một thế hệ, một thời đại văn chương. Ông gọi Chế Lan Viên là “cây đại thụ của khu rừng thơ Việt Nam” và tự hỏi “sự trống vắng ấy còn tồn tại bao lâu”, đó là nỗi tiếc thương xen lẫn chiêm nghiệm về sự hữu hạn của đời người và sự bất tử của nghệ thuật.

Trong giọng kể, ta nhận ra một ý thức lưu truyền ký ức văn học: viết để không quên, để thế hệ sau còn hiểu những người đã tạo nên nền thơ Việt Nam hiện đại. Vì vậy, truyện ký này không chỉ là hồi tưởng cá nhân, mà là một “ký ức tập thể”, là tiếng nói của lòng biết ơn và sự tiếp nối văn hóa.

Nhìn lại toàn bộ “Chế Lan Viên trong tôi”, có thể thấy văn phong và nghệ thuật viết truyện ký của Lê Hồng Thiện gói trọn trong ba chữ: chân - tình - nghệ. Ông viết bằng sự chân thành của người chứng kiến, bằng tình cảm của người tri âm, và bằng nghệ thuật của người biết tiết chế. Lối kể giản dị nhưng giàu nhạc điệu, kết cấu mềm mại nhưng chặt chẽ, chi tiết nhỏ mà gợi lớn và tất cả hòa quyện thành một phong cách văn ký hướng nội, cảm xúc hướng ngoại, tri thức hòa vào nhân cách.

Qua ngòi bút Lê Hồng Thiện, nhà thơ Chế Lan Viên không chỉ là một danh nhân văn học, mà là một con người bằng xương thịt, biết yêu, biết say, biết trăn trở và biết sống tận cùng cho thơ. Tác phẩm vì thế không chỉ là “trong tôi” của riêng tác giả, mà còn là “trong chúng ta”, những người đọc hôm nay, vẫn tiếp tục nghe vang vọng dư âm một thời, nơi văn và người hòa làm một, ký ức và hiện tại soi sáng lẫn nhau.

Nguyễn Việt Chiến
.
.