Người trong cõi nhớ
Sau 15 năm sáp nhập, năm 1991, Hội Văn nghệ Nghệ Tĩnh chia tách thành Hội Văn nghệ Hà Tĩnh và Hội Văn nghệ Nghệ An. Chúng tôi tay xách, nách mang những quần áo, sách vở, bếp dầu, xoong, chảo... trở về thị xã Hà Tĩnh.
Hôm ấy mưa lây phây, gió nhẹ và se lạnh. Đứng trước ngôi nhà của Công ty vật tư nông nghiệp thấp, dài như một toa tàu, mái ngói trồi thụt sẽ là trụ sở Hội Văn học Nghệ thuật Hà Tĩnh, lòng tôi thì cứ man mác buồn. Cứ mong có ai đó đón mình. Mà nào có ai. Hơn chục năm chẳng mấy khi chúng tôi gặp gỡ anh chị em viết văn "Phương Nam".
Mãi quá chiều thì nhạc sĩ Ngọc Thịnh đến. Còn nhớ Ngọc Thịnh cao lớn, khuôn mặt với những đường nét rõ ràng, hơi chỉn chu; mắt sáng, nụ cười rộng, hồn hậu. Bắt tay mọi người xong, Ngọc Thịnh lôi từ chỗ nào đó sau làn áo phông ra một cái hộp inox, dèn dẹt nhỏ như một bàn tay thiếu nữ và một cái chén sứ bằng nửa quả chanh vùng đồi trọc. Thứ hộp đựng rượu thường thấy ở những gã đội mũ phớt rộng vành cưỡi ngựa đen trong phim cao bồi, còn cái chén giống chén các cụ ngày xưa ngồi xếp bằng trên phản gỗ nhâm nhi trà.
Cứ thế, đứng giữa sân, giữa gió lạnh, dưới trời mưa bụi mà uống. Mỗi người một chén. Dốc lấy giọt cuối cùng mà uống. Về sau tôi biết, Ngọc Thịnh từng là công nhân Nhà máy điện Vinh, lái xe trong Trung đoàn 406, Bộ Tư lệnh Thiết giáp, trồi trụt trên các tuyến đường Hoàng Liên Sơn. Rồi làm diễn viên. Rồi sáng tác ca khúc.
Ca khúc đầu tiên của Ngọc Thịnh viết năm 1979 có tên: "Lê Nin - Hồ Chí Minh". Và nhiều năm sau đó, khi đã thành cán bộ Trung tâm Văn hóa Thông tin Thị xã, trước khi vào học Nhạc viện Quốc gia Hà Nội, Ngọc Thịnh sáng tác ca khúc theo bản năng, theo thúc ép của đời thường cơm áo. Anh nói, tôi sáng tác ca khúc để vợ (ca sĩ Thái Bảo) hát, còn tôi thì gảy đàn guitar cho các trò chơi xổ số. Rồi kể chuyện xếp hàng mua mì hạt, gạo tấm, đóng mùn cưa, quạt than tổ ong... Chuyện cũ mèn, quen nhàm, nhưng giọng kể thì làm cho mọi thứ thành mới lạ, thứ giọng nhẩn nha, lờ mờ, day dứt. Chao ôi, cái thời buổi bao cấp gạo châu, củi quế phũ phàng quá.
Những năm đầu 90 thế kỷ trước ấy, anh em văn nghệ sống với nhau hồn nhiên, vô tư, khi vui, khi buồn, khi đói, khi no đều ăm ắp tiếng cười. Hội Văn nghệ vỏn vẹn 8 người, như một gia đình. Thì là thế; 6 người ở trong một nhà, ăn chung một mâm, cơm độn mì sợi, có bữa mì cục, thức ăn rặt những món quê kiểng: những cá kho khế, canh rau muống nấu ruốc; bữa sáng có thịt ba chỉ rang cháy cạnh.
Hội thường xuyên đón khách. Khách là hội viên, đủ các chuyên ngành, các lứa tuổi. Râm ran chuyện văn chương. Dễ đều là "thiên tài", bốc nhau lên tận mây. Thì cơm áo nó đì mình xuống thì mình đỡ nhau, tâng nhau lên, chứ văn chương đã đâu vào đâu. May mà ai cũng biết rõ thế. Về đêm, chúng tôi bíu vai nhau đi dọc những con đường phố lươm nhươm cát sỏi, âm thầm bóng cây và rì rào gió. Lê thê giọng đọc thơ của Phạm Việt Thư, lẫn với giọng hát trầm lắng của Ngọc Thịnh. Đứa nào đứa nấy, tóc tai, áo quần đẫm sương và dính đầy hoa keo vàng.
Rồi tôi biết thêm, bố Ngọc Thịnh là ông Nguyễn Ngọc Phúc, cán bộ Ty Thông tin từ sau Cách mạng tháng 8/1945, mẹ là thợ may, anh em Ngọc Thịnh chẳng phải lội ruộng sâu, ruộng cạn cày cấy, gặt hái như tôi. Biết vậy mà ngạc nhiên khi nghe Ngọc Thịnh nói về quê hương, về cái sắc màu, cái mùi vị của bùn, của nước, của cỏ cây hoa lá, của những món ăn cua, cáy,… đồng chiêm trũng. Mà không chỉ trong câu chuyện nồng nàn phong vị quê kiểng mà cả trong ca từ của những ca khúc đã có mùi bùn thơm ngậy, màu hoa bần ven sông, màu hoa dong riềng bên giậu mồng tơi, rồi thì tiếng côn trùng, tiếng dam bò trong giỏ tre... Tôi nghĩ, chưa thành tác giả lớn, chưa là nhà này, nhà nọ, nhưng đã lờ mờ trong Ngọc Thịnh cái tố chất của người làm văn chương, nghệ thuật.
Rồi những đêm lang thang ít đi. Những cuộc rượu ít đi. Những tâng bốc nhau ít đi. Dường như bọn chúng tôi nhận ra còn nhiều thứ quan trọng chưa làm mà thời gian thì nó cứ dưng dửng bóng chim câu. Năm 1995, Ngọc Thịnh đi học ở Nhạc viện Hà Nội. Bẵng đi 5 năm, anh trở về với Thị xã Hà Tĩnh. Sau học hành, Ngọc Thịnh đã tìm ra đường đi cho mình. Cái nghề làm văn chương, nghệ thuật vốn gập ghềnh, lắm nẻo. Có người làm hàng chục năm, đẻ ra bao nhiêu là tác phẩm rồi vẫn chưa tìm ra đường đi cho mình. Ấy là chưa kể lạc đường; chọn cho mình con đường nó không hợp với cái "tạng" của mình.
Nhớ có lần, lâu rồi, Ngọc Thịnh nói thuở khó khăn, anh đi gảy đàn guitar thuê cho đội văn nghệ nghiệp dư, như duyên trời xui gặp được Thái Bảo. Bữa ấy, Thái Bảo hát bài dân ca Nghệ Tĩnh "Giận thì giận, thương thì thương", còn anh thì đệm đàn. Ấy là phút đầu tiên anh nhận ra sức cuốn hút ma mị của dân ca qua giọng hát của Thái Bảo. Ngọc Thịnh nói, với cái "tạng" mình phải cắm rễ cảm hứng vào mảnh đất dân gian xứ Nghệ may ra mới làm nên tấm nên miếng.
Cùng với Lê Hàm, Vi Phong, Mạnh Chiến, Quốc Nam, Ngọc Thịnh đã sớm biết cảm nhận và tiếp thu sắc thái dân ca của cha ông để có cái tình đằm thắm riêng trong ca khúc của mình. Thêm vào là ca từ với chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ mang đậm phong vị dân gian.
Ngọc Thịnh có được nhiều thành công trong chặng đường sáng tác giai đoạn 2000 đến nay. Những con số hàng chục ca khúc, nhạc múa, giải thưởng cuộc thi này, cuộc thi kia, giải thưởng Hội Nhạc sĩ Việt Nam chỉ nói lên được một phần; thậm chí là phần nhỏ trong sự nghiệp lao động sáng tạo của Ngọc Thịnh. Quan trọng hơn là tác phẩm của anh được công chúng ưa thích.
Có thể phân ra, một sự phân chia mờ nhòe, ca khúc Ngọc Thịnh ra ba mảng: Những ca khúc phát triển chất liệu các làn điệu dân gian là mảng thành công nhất của anh với "Câu đợi câu chờ", "Ca dao sông quê", "Con nước dòng đời", "Lời quê", "Chùa Hương Tích", "Một chiều Đền Bích Châu", "Mẹ", "Hà Tĩnh quê mình", "Đò dọc sông đêm", "Duyên nợ Nghi Xuân", "Mênh mang ca trù...". Chỗ âm hưởng ca trù, chỗ âm hưởng ví đò đưa, chỗ âm hưởng lẩy Kiều... Những ca khúc trữ tình và ca khúc mang phong cách nhạc nhẹ với "Những cung bậc", "Phút thoáng qua", "Đông muộn", "Tình xuân", "Lời cỏ ngày xuân...". Cái chất đa tình, đa cảm và cả đa mang của Ngọc Thịnh rõ nhất ở những ca khúc này. Những ca khúc theo dòng nhạc chính thống với "Hát mãi tên Người Hồ Chí Minh", "Trước mộ hoa", "Nét xưa Hà Nội"...
Đời con người thường có những giai đoạn lặp lại ý thích, niềm đam mê. Những năm mấp mé tuổi 60, tôi lại bỗng thích lang thang, đam mê những cuộc đi chơi. Tôi và Ngọc Thịnh thường đi với nhau. Những cuộc chơi không đầu, không cuối, không địa điểm tính trước, không người dự định gặp. Đi như những kẻ lang thang không nơi nương tựa, không chỗ trú chân. Đi và nghiền ngẫm mọi sự đời chợt nhớ ra. Đi và nhẩn nha kể về những kỷ niệm đã bị thời gian phủ bụi, kể về những ước mơ giản dị, những ước mơ viển vông, về những mối tình đẹp như thơ và cay đắng như gừng, như ớt...
Không nói chuyện sáng tạo văn chương, âm nhạc, và dĩ nhiên không nói chuyện công việc, phận sự công chức nhà nước. Sau mỗi chuyến đi, trở về Ngọc Thịnh như kẻ trầm cảm, uể oải ra, ngơ ngác ra. Mới hôm kia, sau chặng đường lang thang dọc bờ sông La, ngồi trong quán rượu cạnh rìa đường trắng phớ bụi, Ngọc Thịnh gõ gõ ngón tay lên chén sứ, mắt ngước lên, hai hàng ria mép cựa quậy nói với tôi, giọng xúc động: Cái nhịp này là nhịp sóng dưới mái chèo cô gái có mái tóc như sóng ấy đưa bọn mình qua sông chiều hôm qua. Rồi đọc: "Nào mấy khúc tình đời/ Người hát rong ngân lên đầy vơi/ Được mất mấy nụ cười/ Quầng thâm trên mắt ai...". Người hát rong ngồi với bọn ta ở cổng chợ Hôm Đức Thọ, ông nhớ chứ? Tôi không đáp, ngẩng nhìn anh. Ngọc Thịnh là thế, luôn mẫn cảm, tinh tế...