"Kê minh thập sách" - mạch nguồn, tiếp biến, ảnh hưởng

Thứ Sáu, 24/10/2025, 08:29

Chung quanh “Kê minh thập sách” về tác giả, bối cảnh ra đời còn rất nhiều điều cần được làm sáng tỏ nhưng ý nghĩa lớn lao đặc sắc về tư tưởng trị nước và giữ nước phải đặt trên nền tảng thương dân, vì dân, thì hầu như đều được khẳng định.

Đến nay các vấn đề văn bản, tác giả được tham khảo chủ yếu từ sách “Truyền kỳ tân phả” của Ðoàn Thị Ðiểm (1705 - 1748). Kể rằng thời vua Trần Duệ Tông (1372 - 1377) có người con gái đẹp, giỏi thơ văn tự là Bích Châu, được kén vào cung. Hôm ấy, tiết trung thu, vua ra vế đối: “Thu thiên họa các quải ngân đăng, nguyệt trung đan quế” (Trời thu, gác tía treo đèn bạc, quế đỏ trong trăng). Bích Châu đối: “Xuân sắc đài trang khai bảo kính, thủy để phù dung” (Sắc xuân đài trang mở gương báu, phù dung đáy nước). Vua khen hay, từ đó rất yêu quý nàng.

Bia đá khắc "Kê minh thập sách".

Trước cảnh đời sống nhân dân khổ cực, triều chính rối ren, Bích Châu bèn dâng lên vua một bức sớ mười điều, gọi là “Kê minh thập sách”. Xin phép trích phần dịch nghĩa: “Một, giữ gốc của nước, trừ hà bạo thì lòng người yên vui. Hai, giữ nếp cũ, bỏ phiền nhiễu thì kỷ cương không rối. Ba, nén chặt kẻ quyền thần, ngăn ngừa chính sự mục nát. Bốn, thải bớt những kẻ nhũng lạm, trừ tệ khoét đục của dân.

Năm, cổ động nho phong, cho lửa bó đuốc và ánh mặt trời cùng soi sáng. Sáu, mở đường cho người nói thẳng, để cho cửa thành cùng với đường can gián mở toang. Bảy, kén quân nên chú trọng vào dũng lực hơn là cao lớn. Tám, chọn tướng cầu người thao lược, không căn cứ vào gia thế. Chín, khí giới quý hồ bền chắc, không chuộng hình thức. Mười, trận pháp cốt chỉnh tề, cần chi điệu múa”.

Dễ thấy nổi lên bốn nội dung cơ bản như bốn cột chống vững vàng của ngôi nhà xã tắc: coi dân là “gốc” của nước; trừ “hà bạo”, tham nhũng; trọng văn hóa; cần thẳng thắn thực chất trong chọn hiền tài và việc quân binh.

Xem xong, vua khen hay nhưng không làm theo. Năm 1377, vua đem quân đánh Chiêm Thành. Bích Châu hết sức can ngăn. Vua quyết cất binh, Bích Châu xin theo hộ giá. Đến cửa biển Kỳ Hoa (Kỳ Anh - Hà Tĩnh) thì gặp mưa gió dữ dội. Vua lệnh tạm đóng quân.

Đêm ấy, vua mơ một vị thần tự xưng “Đô đốc vùng biển Nam Hải”, thiếu người nội trợ, xin vua một cung tần. Tỉnh dậy, vua cho vời các phi tần kể lại chuyện. Bích Châu tự nguyện hy sinh. Nàng tâu: “Sau khi thiếp chết, xin bệ hạ sửa văn nghỉ võ, kén dùng người hiền, làm điều nhân nghĩa, dựng mưu chước lâu dài cho quốc gia”. Nói xong liền nhảy xuống biển. Bỗng chốc gió tan, mưa tạnh.

Một thế kỷ sau, năm 1470, trên đường đánh quân Chiêm Thành, vua Lê Thánh Tông qua biển Kỳ Hoa, được Bích Châu báo mộng. Thánh Tông ngậm ngùi than rằng: “Quốc gia hưng vượng tất có điềm lành, quốc gia suy đồi, tất có điềm dữ. Ðiềm lành hay điềm dữ, thật có liên quan đến đức của ông vua tốt hay xấu” và phong nàng chức “Chế Thắng phu nhân” với nghĩa người chế định ra mưu lược chiến thắng.

Ðền thờ Bích Châu được lập từ thời đó, nổi tiếng linh thiêng. Hằng năm, ngày 12 tháng hai âm lịch, là ngày giỗ của nàng dân làng mở hội lớn. Lại có tài liệu chép, bà Bích Châu mất sáng ngày này năm đó, ở cửa biển Thị Nại…

Có bà Bích Châu thật, hay chỉ là nhân vật huyền thoại được dân gian sáng tạo để ngầm ý nhắc nhở các bậc quân vương phải lấy “dân” làm cái căn bản của kế sách trị nước, giữ nước? Còn ngầm ý khác: là nữ nhi mà có trách nhiệm cao với đất nước như vậy, huống hồ các bậc “thất phu”! Chắc chắn ý nghĩa của “Kê minh thập sách” sẽ sống mãi với thời gian. Điều 5 “cổ động nho phong, cho lửa bó đuốc và ánh mặt trời cùng soi sáng” sau này được Bác Hồ kế thừa, phát triển thành: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”.

Nằm trong dòng chảy Nho giáo, “kê minh” (tiếng gà gáy sáng) có miền thượng nguồn từ trước tác Khổng Tử. Ông là tác giả (?) của hai bài “kê minh” được truyền tụng. Bài “Kê minh” là lời nhắc của người hiền phi khuyên vua dậy sớm: “Gà đã gáy rồi/ Triều thần đã đầy đủ rồi”. Vua phải dậy thôi, để “thiết triều”. Bài “Nữ viết kê minh” là lời người vợ giục chồng dậy sớm làm việc: sao mai đã mọc rồi, chàng phải dậy thôi… Cả hai bài, nhân vật người nữ đều mượn tiếng gà để giục vua/chồng dậy sớm. Không còn là tiếng gà đơn thuần, mà là lời giục giã…

Gà gáy sáng (tranh Đông Hồ).

Trong tín ngưỡng Việt, ý nghĩa tiếng gà mở rộng hơn. Cổ tích “Cường Bạo đại vương” kể, Ngọc Hoàng lệnh Thủy Tề dâng nước thật cao để trả thù Cường Bạo dám đánh người nhà Trời. Cường Bạo bèn ngồi trên một bè chuối, mang theo cái trống, cái chiêng và một con gà trống. Nước dâng, Cường Bạo ung dung phất cờ gióng trống khua chiêng, giục gà gáy lên từng hồi dõng dạc. Thấy nguy, Ngọc Hoàng phải ra lệnh rút nước.

Xuất phát từ quan niệm gà trống mang dương khí, khi gáy gọi mặt trời mọc, âm khí sẽ tiêu tan, ở Trung Quốc cổ xưa, vùng gần biển, người ta tạc những con gà đá trong tư thế đang gáy đặt trên đê. Vì thủy quái thuộc âm nên sợ gà trống. Trong văn hóa Việt, đậm hơn ở tín ngưỡng thờ Mẫu, thường có hình tượng con gà trống đứng uy nghiêm trước điện thờ để ngăn ngừa âm binh.

Lại có nhiều truyện kể, vì tội đánh nhầm người tốt nên Trời bắt Thiên Lôi chịu phạt bằng cách nằm im ở một góc rừng, để thỉnh thoảng gà trống đến mổ một cái thật đau. Khi thoát tội, Thiên Lôi còn giật mình sợ hãi khi nghe thấy tiếng gà. Thế nên nuôi gà trống là cách để tránh sét. Những điều trên lý giải vì sao Cường Bạo lại dùng chiêng (tiếng kim khí - thuộc “dương”), trống và tiếng gà gáy trên bè chuối… Như vậy, trong văn hóa Việt, ngoài ý nghĩa thức tỉnh, “tiếng gà” còn là cảnh tỉnh, cảnh báo, cảnh giới…

Nhìn vào nội dung “Kê minh thập sách” cũng cho thấy sự đa nghĩa này. Đằng sau 10 kế sách còn hằn sâu một thâm ý nhắc nhở: không làm theo sẽ chịu hậu quả khôn lường. Vì như cổ nhân từng dạy: chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân!

Hình tượng âm thanh “tiếng gà” từ các “cổ mẫu” vọng về thời sau. Thời vua Lê Thái tổ, Nguyễn Thiên Túng (?-?) có bài “Phú gà gáy sáng” rất đáng chú ý. Trong bối cảnh nhiều văn nhân còn tư tưởng hoài tiếc nhà Trần không chịu hưởng ứng chiếu “Kêu gọi hiền tài” của Lê Lợi, bài phú mang ý nghĩa như một sự thức tỉnh những tâm trạng hoài nhớ quá khứ, cần mở lòng để đón “Cơ hội nghìn năm, gặp đời thịnh trị”.

Nguyễn Bỉnh Khiêm có bài “Quán kê thi” (Bài thơ về gà trống) ví tiếng gà gáy như là sự khuyến giáo đạo đức: “Ngũ đức hữu chí tình/ Tam hào phi ác thanh/ Tư tư khuyến vi thiện/ Thời hướng hiểu song minh” (Năm đức đều trọn vẹn/ Ba lần gáy hết lòng/ Khẩn khoản khuyên điều tốt/ Tiếng gọi đón mai hồng).

Bài thơ là một “liên văn bản” hội tụ nhiều luồng văn hóa. Phật giáo quan niệm “gà” mang phẩm chất tốt lành, hướng thiện nên thường dùng từ “kim kê” (gà vàng) để nói về tính thanh tịnh, trong sáng của chúng sinh. Trong nghệ thuật tạo hình, “mặt gà” là một nguyên tắc (không phổ biến) để hình dung khuôn mặt của Bồ tát. Theo Nho học, “đại kê” (gà trống) gần âm với “đại cát” (tốt lành nhất). “Đại cát” lại là một quẻ bói chỉ điều may mắn… Thế nên “gà trống” biểu trưng cho “ngũ đức” (5 đức tính) quân tử: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

Tiếng gà khắc khoải, chua chát đến đau đớn trong thơ Hồ Xuân Hương, không phải để “báo sáng”, mà là tiếng “oán hận vang ra khắp mọi chòm”. “Oán hận” thân phận tôi đòi kiếp đàn bà “cơm nguội” hẩm hiu trong xã hội nam quyền ích kỷ.

“Kê minh” trong thời đất nước có nạn giặc Pháp xâm lăng, hầu như được hiểu là “thức tỉnh” đồng bào, nhất là thanh niên không u mê trong đêm đen nô lệ, mà phải biết đứng dậy cứu nước, cứu nòi.

Nhà yêu nước vĩ đại Phan Bội Châu có bài “Gà gáy sáng” như giục giã: “Vỗ cánh ba hồi khua (dân) chúng dậy/ Chẻ then muốn cửa rước xuân về/ Nhẽ nào cam được non sông ấy?/ Một gáy vừng đông bỗng lập lòe”. Trong “Bài ca chúc Tết thanh niên”, “tiếng gà” giục giã thức tỉnh còn mạnh mẽ hơn: “Dậy! Dậy! Dậy!Bên án một tiếng gà vừa gáy/ Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng”. Hình tượng tiếng gà ở “Nhật ký trong tù” của Bác Hồ cũng mang nghĩa biểu tượng: “Một tiếng, toàn dân bừng tỉnh mộng”. Đó là tiếng kêu gọi yêu nước, đoàn kết cứu nước.

Trong bối cảnh kêu gọi lòng yêu nước, “kê minh” chủ yếu được hiểu theo nghĩa “thức tỉnh”… Từ ý nghĩa này, tên bài sớ “Kê minh thập sách” của bà Bích Châu có thể hiểu là: Mười kế sách làm lúc gà gáy. Nhưng thiên về cách hiểu: Mười kế sách như những tiếng gà gáy sáng!? Ở thời nào cũng vậy, ai cũng cần có tiếng “kê minh” đánh thức khát vọng bản thân. Cũng đồng thời, để cảnh báo giới hạn của chính mình!

Nguyễn Thanh Tú
.
.