Học giả Nguyễn Hiến Lê với duyên nợ nghề giáo

Chủ Nhật, 23/11/2025, 07:41

Học giả Nguyễn Hiến Lê (1912-1984) không chỉ là một nhân vật lỗi lạc trong giới cầm bút, mà ông cũng có nhiều năm dạy học và dành nhiều sự quan tâm đặc biệt cho giáo dục. Dù thời gian học giả Nguyễn Hiến Lê đứng trên bục giảng chính thức chỉ có mấy năm, nhưng ông vẫn hiện diện trên cuộc đời với chân dung một người thầy đáng kính.

Học giả Nguyễn Hiến Lê sinh ngày 8/1/1912 tại ngôi nhà số 4 ngõ Phất Lộc, Hà Nội. Mồ côi cha từ năm 8 tuổi, Nguyễn Hiến Lê và ba người em được lớn lên trong tình thương của người mẹ gánh vác xuôi ngược tảo tần. Sau khi tốt nghiệp Trường Công chánh Hà Nội niên khóa 1931-1934, Nguyễn Hiến Lê được bổ nhiệm làm công chức ở Sở Thủy lợi miền Nam. Ngày 19/1/1935, ông lên chuyến tàu từ ga Hàng Cỏ đến ga Sài Gòn, và gắn bó cả sự nghiệp với đất đai phương Nam.

nguyen hien le 1.jpg -1
Học giả Nguyễn Hiến Lê qua nét vẽ Trần Thế Vĩnh.

Vốn được đào tạo để làm “nghề đốc công thủy lợi” như cách ông tự mô tả: “Tôi lên bờ xét công việc coi nước. Trên các kinh rạch Đồng Tháp, Sở Thủy lợi miền Nam cho cắm hơn 20 cây đo nước, mỗi cây giao cho một người giữ. Bổn phận của họ là cứ mười lăm, hai mươi phút hoặc nửa giờ, một giờ một lần, đo mực nước trong kinh rạch ở trên thước rồi ghi vào một tờ giấy. Công việc ấy rất cần cho sự đào kinh.

Chẳng hạn muốn đào con kinh từ A đến B và muốn cho nước kinh chảy từ A tới B, thì mực nước ở A luôn luôn phải cao hơn ở B. Nếu không đo trước mực nước, đào bậy bạ, gặp một chỗ mực nước cao hơn A, thì mực nước sẽ chảy dồn về A. Và đáng lẽ phải tháo nước ở A đi, thì ta lại làm cho A ngập nữa, nguy hại biết chừng nào”. Thế nhưng, nhờ cơ duyên đặc biệt, học giả Nguyễn Hiến Lê lại có sự chuyển hướng ngoạn mục ngang nghề văn và nghề giáo.

Có lẽ học giả Nguyễn Hiến Lê sẽ không có ý định theo con đường văn chương nếu không có gợi ý của người bạn học Vũ Đình Hòe (1912-2011, Bộ trưởng đầu tiên của Bộ Giáo dục - Đào tạo). Năm 1944, Nguyễn Hiến Lê ra Hà Nội thi nâng ngạch kỹ sư thủy lợi, tình cờ gặp lại Vũ Đình Hòe đang làm chủ nhiệm Tạp chí Thanh Nghị. Khi nghe Vũ Đình Hòe đề nghị viết một tác phẩm phản ánh cuộc sống miền Nam, Nguyễn Hiến Lê thổ lộ ngay ý tưởng cuốn sách về Đồng Tháp Mười, bởi lẽ “sách địa lí chỉ nói về nó một hai hàng, mà lại đặt cho nó một cái tên khác là “Đồng Cỏ Lát”, nên nói đến Đồng Tháp thì mười người Việt, chưa chắc được một người biết”.

Vậy là, đúng năm 32 tuổi, Nguyễn Hiến Lê khởi nghiệp viết lách. Chỉ mất sáu tháng, ông hoàn thành cuốn sách 150 trang về Đồng Tháp Mười và gửi cho tòa soạn Thanh Nghị, như lời giao ước với Vũ Đình Hòe.

Thế nhưng, Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, giao thông trắc trở. Trong hồi ký, Nguyễn Hiến Lê bộc bạch số phận tác phẩm đầu tay: “Sở Bưu điện ở Sài Gòn không nhận đồ bảo đảm ra Bắc nữa. Thế là đành sai hẹn với anh bạn, và bản thảo phải cất trong rương, đợi một cơ hội khác. Vì tôi chưa đủ tiền đem in, mà cũng chưa quen một nhà xuất bản nào. Thượng tuần tháng 10/1945, tôi lại về Đồng Tháp Mười, tại nhà bác tôi.

Một đêm, có sáu bảy tên cướp vào nhà, chủ ý là bắt cóc một ông điền chủ lớn đang lánh nạn trong nhà. Song, rủi cho chúng và rủi cho tôi, ông điền chủ lớn trốn thoát. Chúng đành vơ vét ít quần áo, mùng mền rồi ôm luôn cái va li của tôi đi. Thế là tập Đồng Tháp Mười mất ngay trong Đồng Tháp Mười. Tôi tiếc lắm. Vậy là tôi đã có cái duyên mới được bổ vào làm ở cánh Đồng Tháp rồi gặp bà con ở đó, nên mới biết rõ được nó. Lại có cái duyên bạn một ông chủ bút trọng lịch sử và địa lí Việt Nam, nên mới hăng hái viết về cánh đồng ấy”.

Sau nhiều bôn ba chìm nổi, đầu năm 1954, Nguyễn Hiến Lê ngồi viết lại cuốn sách bị lấy mất, đặt tên là “Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười”. “Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười” còn giúp người đọc hôm nay hình dung được nếp ăn nếp ở thuở xưa của cư dân miệt đồng, từ nhịp điệu lao động “Nhiều con kinh không phải đào. Trước khi nước rút gần cạn, người ta cho một đàn trâu lội đi trước, và đẩy vài chiếc tam bản theo sau. Bùn còn ướt, vẹt ra hai bên, thành một lòng kinh nông. Liên tiếp vài mùa như vậy là thành kinh” đến đời sống tâm linh “Đi ghe trong các kinh, rạch, lúc vào sẩm tối, ta thường thấy hai bên bờ, cứ vài chục thước lại hiện những đốm đỏ, nhỏ như đom đóm. Đó là hương thắp trước mỗi nhà. Có xóm vang lên tiếng tụng kinh gõ mõ. Có nơi tới ngày rằm, mùng một, không sao kiếm được ở chợ các món thịt, cá. Nhà nào cũng ăn chay và có nhiều người ăn chay trường”.

Học giả Nguyễn Hiến Lê có hai người vợ đều làm nghề dạy học, đó là bà Nguyễn Thị Liệp sinh năm 1909 và bà Trịnh Thị Tuệ sinh năm 1915. Ban đầu ông quen với bà Nguyễn Thị Liệp, nhưng hôn nhân không thành. Tháng 4/1937, ông đám cưới với bà Trịnh Thị Tuệ, và có chung một người con trai Nguyễn Nhật Đức sinh năm 1938. Tháng 7/1956, ông nối lại cách ngăn bẽ bàng và đám cưới với bà Nguyễn Thị Liệp.

Quan hệ một chồng hai vợ, hồi ký Nguyễn Hiến Lê viết: “Trong ba người, chỉ có tôi là đóng vai trò không đẹp, ích kỷ, khiến cho hai người kia đều buồn. May là hai người đều có học, đều dạy học để tự túc được mà mỗi người lại ở một nơi, nên buồn vài năm rồi cũng quen. Và từ năm 1972, hai người thân nhau như hai chị em”.

a.jpg -0
Cuốn sách tiêu biểu về đề tài giáo dục của học giả Nguyễn Hiến Lê.

Nếu bà Nguyễn Thị Liệp dạy tiểu học tại Long Xuyên, thì bà Trịnh Thị Tuệ mở lớp dạy học tại nhà riêng ở Sài Gòn. Còn học giả Nguyễn Hiến Lê khi nghỉ việc Sở Thủy lợi miền Nam đầu năm 1946, đã có một thời gian làm gia sư “vì ít học sinh nên tôi dạy kỹ, tùy theo tư chất của mỗi trẻ, nếu thông minh thì tôi thúc, bắt học nhiều, kém thông minh thì chỉ bắt buộc nhớ những điều cần thiết thôi. Cha mẹ học sinh thấy tôi siêng mà dạy rõ ràng, trẻ dễ hiểu, mau tấn tới nên càng tin cậy”.

Về sau, ông có ba năm dạy Pháp văn và Việt văn ở Trường trung học Thoại Ngọc Hầu, Long Xuyên, “tôi soạn bài kỹ, giảng cho rõ ràng, bắt học sinh làm nhiều bài tập, công bằng, thẳng thắn, dù con bạn thân mà làm biếng tôi cũng rầy, dù con các người tai mắt trong tỉnh, nếu lười tôi cũng mắng nặng lời”.

Học giả Nguyễn Hiến Lê là một nhà giáo nghiêm khắc: “Năm nào tôi cũng đề nghị với hiệu trưởng cho mỗi lớp năm bảy học sinh ở lại vì sức non quá, nhưng hiệu trưởng không nghe, có lẽ vì không muốn làm mất lòng phụ huynh. Tôi bất mãn vì điểm đó lắm, bảo như vậy trái với quy tắc sư phạm, trái với cả cái lợi của học sinh vì học mà không hiểu thì đã mất thì giờ mà lại chán...

Nguyên tắc của tôi là chỉ cho học sinh cách học, rồi hướng dẫn họ, để họ có thể tự học được. Điều đó rất quan trọng vì hết thảy các học sinh không biết cách ghi chép lời giảng của thầy, không biết cách học bài, làm bài, không biết cách học ôn, cách tìm tài liệu, không có một thời dụng biểu ở nhà… Tôi cho rằng trong nghề dạy học, tư cách ông thầy quan trọng nhất: phải đứng đắn, nhất là công bằng; rồi lời giảng phải sáng sủa, mạch lạc, muốn vậy ăn nói phải lưu loát, và soạn bài phải kỹ”.

Chính nhờ mấy năm theo nghề giáo, học giả Nguyễn Hiến Lê đã thấu hiểu vai trò của giáo dục để viết được hàng chục tác phẩm có giá trị bồi dưỡng trí tuệ và tâm hồn cho nhiều thế hệ người Việt Nam. Các cuốn sách khẳng định đẳng cấp người thầy của học giả Nguyễn Hiến Lê có thể kể đến “Kim chỉ nam của học sinh”, “Để hiểu văn phạm”, “Thế hệ ngày mai”, “Tự học để thành công”, “Săn sóc sự học của con em”, “Bí quyết thi đậu”, “Muốn giỏi toán hình học phẳng”, “Thời mới dạy con theo lối mới”,  “Tìm hiểu con chúng ta”, “Lời khuyên thanh niên”, “33 câu chuyện với các bà mẹ”, “Thế giới bí mật của trẻ em”...

Từ một kỹ sư thủy lợi chuyển sang làm nghề giáo rồi trở thành nhà văn có sự nghiệp đồ sộ với hơn 100 tác phẩm bao quát nhiều lĩnh vực, học giả Nguyễn Hiến Lê luôn tâm niệm: “Chỉ nên hưởng cái phần xứng đáng với tài đức của mình thôi. Nếu tài đức tầm thường mà được phú quý, hoặc được nhiều người ngưỡng mộ, thì thế nào cũng mang họa vào thân”.

Tuy Hòa
.
.