“Hạn mạn du ký” -  một khúc sông trong

Thứ Sáu, 06/12/2024, 10:14

Có lẽ, trong lịch sử văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX về mặt thể loại, với các thể ký nói chung và thể du ký nói riêng, Tiêu Đẩu - Nguyễn Bá Trác qua "Hạn mạn du ký" là tác phẩm đầu tiên ra mắt công chúng (1919 - 1920). Sách vừa được Liên hiệp các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam - NXB Hội Nhà văn phát hành 2024.

Nỗi lòng một thanh niên yêu nước

"Hạn mạn du ký" gồm 14 chương, được viết bằng Hán văn, đăng trên Tạp chí Nam Phong từ số 22/4/1919. Sau đó tác giả tự dịch thiên du ký của mình ra chữ Quốc ngữ để đăng lại trên Tạp chí Nam Phong từ số 38 đến số 43 năm 1920 và được Đông Kinh ấn quán tại Hà Nội in thành sách xuất bản năm 1921. Tác phẩm ghi lại hành trình kéo dài sáu năm (từ 1908 đến 1914) của Nguyễn Bá Trác qua các nước Thái Lan, Trung Hoa, Nhật Bản. Trong đó thời gian lưu trú tại Nhật Bản đã để lại cho tác giả nhiều ấn tượng sâu đậm.

Còn bản in Quốc ngữ "Hạn mạn du ký" đăng trên Tạp chí Nam Phong đã được độc giả đón nhận nồng nhiệt. Khi bàn về tác phẩm này, nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ đánh giá trong "Việt Nam văn học sử giản ước tân biên" (1965):

“Hạn mạn du ký” -  một khúc sông trong -1
Tác giả Nguyễn Bá Trác (1881 - 1945).

"Câu Việt văn khá mạch lạc suông sẻ, đôi chỗ đăng đối du dương. Những tình tiết li kì của cuộc phiêu lưu nơi đất lạ đã đem lại cho câu chuyện nhiều vẻ hấp dẫn. Nhất là đối với các Nho gia ta khi ấy từng ôm cái mộng Đông Du; nếu không thì trí não cũng đầy kỷ niệm văn chương về danh nhân, danh thắng Trung Hoa, đọc "Hạn mạn du ký" của Nguyễn Bá Trác thật là thú vị. Cả nữ giới cũng hoan nghênh lắm.

Bà Tương Phố từng kể hay gối Nam Phong ở đầu giường để đọc du ký của ông Quỳnh (Phạm Quỳnh), ông Trác mà mộng du đất Pháp, đất Tàu. Ông Dương Quảng Hàm khi làm sách "Quốc văn trích diễm" (1925) dành hẳn cho thiên du ký của Nguyễn Bá Trác hai bài trích, đó là Đường đi Hương Cảng và Điếu Kim Lăng, đủ thấy độc giả đương thời đã thích thưởng thức dường nào".

Tác giả Nguyễn Bá Trác tự nhận đây chỉ là "Lời ký của một người đi chơi phiếm" ngay dưới phụ đề Hán văn. "Đi chơi phiếm" mà vô cùng vất vả. Khi thì lẩn trốn chui lủi trong rừng rậm miền Trung, lúc phải giả làm tu sĩ Phật giáo ở Phú Yên, khi sang Thái Lan phải nằm trong hầm tối chật hẹp dưới tàu thủy, có lúc đối diện với cái sống cái chết trong chiến tranh ở Trung Quốc hay bị trinh thám Nhật theo dõi sát sao,… May thay, cuộc "Đi chơi phiếm" dù khó khăn, vất vả song tác giả đi đến đâu cũng có quý nhân phù trợ, tận tình giúp đỡ.

Thực tình, "Hạn mạn du ký" không phải "Lời ký của một người đi chơi phiếm", không phải thú rong chơi của một thanh niên ưa xê dịch. Đây là nỗi lòng của một thanh niên yêu nước ở tuổi ngoài 20 đầy nhiệt huyết, trăn trở với vận mệnh dân tộc, đã theo tiếng gọi của Tổ quốc mà rời nước sang Đông Du bên Nhật Bản đặng tìm con đường giải phóng dân tộc, cứu dân cứu nước khỏi nô lệ lầm than dưới ách cai trị thuộc địa của thực dân Pháp. "

Hạn mạn du ký" qua dấu chân tác giả còn chứa đựng những khát vọng lớn lao, những ước mơ cháy bỏng về một quốc gia hùng cường qua tấm gương Nhật Bản mà đến hôm nay vẫn là mơ ước của người Việt Nam. Như nhà văn Nguyễn Tuân từng nói trong "Chuyện nghề" (NXB Tác phẩm mới, 1986) thì những tác phẩm như "Hạn mạn du ký" góp phần "thức tỉnh hồn nước và đổi mới hơn lên cái lòng yêu nước cũ".

Không chỉ có giá trị về mặt tư liệu, "Hạn mạn du ký" còn rất giàu tính văn chương. Qua "Hạn mạn du ký", bạn đọc nhận thấy tác giả bước đầu đã cách tân chữ viết, cách hành văn như đánh giá nêu trên của nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ,... Tất nhiên, là nhịp cầu nối giữa các nhà Nho cũ quen dùng Hán văn xưa với một lớp bạn đọc mới đang dùng văn Quốc ngữ trên báo chí, Nguyễn Bá Trác vẫn dùng nhiều từ cổ không dễ đọc với người đọc thế kỷ XXI hôm nay; song bằng việc đổi mới chữ Quốc ngữ và ngữ pháp của tác giả "Hạn mạn du ký" đã góp phần vào quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. PGS.TS Võ Văn Nhơn - Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học KHXH&NV (Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh) nhận định:

"Hạn mạn du ký" không chỉ là cảm xúc còn lại sau một chuyến đi dài như ông nói trong lời mở đầu du ký. Khác với cái tựa đề nhẹ tênh, du ký này không chỉ là những ghi chép của một khách du lịch mà nặng trĩu tấm lòng của một trí thức đang khát khao cầu tìm tri thức để có thể giúp ích cho đất nước, dân tộc: "Thế giới như ngày nay, phong trào cạnh tranh càng ngày càng kịch. Đại trượng phu sinh ở thời, cũng nên đi cho cùng bốn bể, học cho khắp năm châu, thu lấy mây Mỹ mưa Âu mà tẩm nhuận cho thiên hạ". Đó không phải là "lời ký của một người đi chơi phiếm" mà là sự trải nghiệm sâu sắc, là những suy nghĩ gan ruột của một trí thức luôn đau đáu trước sự lạc hậu của đất nước, là tinh thần "khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh" mà nhà ái quốc Phan Chu Trinh đã từng đề xướng.

Tác phẩm còn ghi nhận tình cảm sâu nặng đối với đất nước của những người con đất Việt vì hoàn cảnh phải bôn ba nơi xứ người. Đó là tình yêu đất nước rất cảm động của mẹ con một bà cụ người Việt lưu lạc sang Trung Quốc, trong đó có tình cảm rất đáng trân trọng của con gái bà cụ đối với Nguyễn Bá Trác, một người con gái tuy chỉ có nửa dòng máu Việt nhưng ý thức rất sâu sắc về quê mẹ. Đó là giọng hát bi tráng của Nguyên Quân trong bài "Nam phương ca khúc" (Hồ trường) khi say rượu nhớ về quê hương ở phương Nam xa lắc, mịt mù" (Võ Văn Nhơn: "Hạn mạn du ký" của Nguyễn Bá Trác - một thiên ký sự về các nước Đông Á đầu thế kỷ XX).

Một quá khứ mạo hiểm

Về tác giả của "Hạn mạn du ký": Nguyễn Bá Trác, bút hiệu Tiêu Đẩu, sinh năm Tân Tỵ (1881) tại làng Bảo An, xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Thi đỗ Cử nhân Hán học ở trường thi Huế năm 1906. Sau đó, ông tham gia hoạt động yêu nước của các nhà Nho trong phong trào Đông Du, Duy Tân… Khi phong trào yêu nước Duy Tân bị thực dân Pháp đàn áp, Nguyễn Bá Trác trốn vào Nam sang Thái Lan, Hồng Kông, Thượng Hải rồi sang Nhật Bản, Trung Quốc… Đây chính là trải nghiệm thực tế để "Hạn mạn du ký" ra đời.

“Hạn mạn du ký” -  một khúc sông trong -0
Sách "Hạn mạn du ký" (2024).

Năm 1914, Nguyễn Bá Trác trở về Hà Nội, làm việc tại Phòng báo chí Phủ Toàn quyền Đông Dương. Năm 1917, ông ra làm chủ bút phần Hán văn của Tạp chí Nam Phong, chủ bút phần Việt văn là Phạm Quỳnh. Bà Phạm Thị Ngoạn, con gái Phạm Quỳnh, trong luận án nghiên cứu mang tên "Tìm hiểu Tạp chí Nam Phong" (Introduction au Nam Phong - Phạm Trọng Nhân dịch, Ý Việt xuất bản, Paris, 1993) đã viết về Nguyễn Bá Trác như sau: "Vào năm 1917, bên cạnh và đối với Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác quả thực đã đóng vai đàn anh, vì tuổi tác, vì danh vị đỗ Cử nhân, và nhất là uy tín của một quá khứ mạo hiểm đã khiến ông nổi danh là lịch duyệt".

Hai năm sau (1919), Nguyễn Bá Trác rời Hà Nội vào Huế làm Tá lý Bộ Học. Từ đây, ông cựu chủ bút Hán văn Nam Phong lần lượt trải qua các chức vụ chốn quan trường: Tuần vũ Quảng Ngãi, Thị lang Bộ Binh, Tổng đốc Thanh Hóa, Tổng đốc Bình Định. Ông mất năm 1945 sau Cách mạng tháng Tám.

Cuộc đời hơn 60 năm của mình, Nguyễn Bá Trác để lại số lượng tác phẩm lớn, gồm cả chữ Hán và Quốc ngữ, văn khảo cứu và sáng tác: Hoàng Việt Giáp Tý niên biểu, Hán học văn học khảo, Quảng Ngãi tỉnh chí… Tiếc rằng, đến nay những tác phẩm này hầu như chưa có cơ hội được tái bản trở lại với công chúng.

Lần tái bản này trích in 8 chương (từ chương I đến chương VIII), người giới thiệu đã sử dụng ấn bản "Hạn mạn du ký", được in thành sách của Đông Kinh ấn quán năm 1921. Trong quá trình chế bản, biên tập, "Hạn mạn du ký" tái bản, người tổ chức bản thảo nhận được sự hỗ trợ của nhà nghiên cứu Hán Nôm - Thạc sĩ Lê Huy Hoàng, Cử nhân Ngữ văn Bùi Tiến Đạt…

Kiều Mai Sơn
.
.