Điều gì làm cho anh đau khổ nhất?

Thứ Sáu, 05/09/2025, 13:42

Quê tôi đồng nghĩa với gió Lào và cát trắng. Trước mặt làng tôi là cánh đồng tựa như dải lụa bao quanh phá Hạc Hải bốn mùa xanh trong. Phá Hạc Hải giống nghiên mực nho khổng lồ đón nhận dòng nước Kiến Giang đổ về, để rồi nghỉ ngơi thong dong trước khi nhập vào sông Long Đại ào ạt tuôn ra cửa biển Nhật Lệ.

Xa hơn về phía Tây có ngọn núi Đầu Mâu hình tháp bút. Không biết từ bao giờ nhiều sự tích, nhiều câu ca dao nổi tiếng nói về tên núi tên sông vùng đầm phá này.

Người ta kể rằng vào những ngày 30 hoặc mùng Một, lúc hoàng hôn, ngọn bút Đầu Mâu chấm xuống nghiên mực Hạc Hải để viết lên trời rộng những dòng chữ mây bí ẩn, cho tới giờ chưa ai giải nổi.

nhà thơ hoàng vũ thuật.jpg -0
Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật.

Sau lưng làng tôi là những động cát mênh mông trắng xóa kéo dài hàng cây số ra tận bờ biển Đông.

Tôi mồ côi cha lúc chưa đầy ba tuổi. Cha tôi và chú tôi là những người học rộng trong xứ. Ông nội tôi là người giàu có hay chữ trong vùng. Chị tôi và anh tôi theo học trường làng thời Pháp chiếm. Hòa bình anh tôi học tiếp một thời gian rồi phải nghỉ, lo cho tôi ăn học.

Học xong cấp 3 phổ thông trường tỉnh, vì hoàn cảnh gia đình tôi không thuộc diện được thi vào các trường đại học. Mày mò mãi họ cho tôi thi vào Trường Sư phạm Trung ương hệ 10+2 ở Thanh Hóa. Thầy giáo Nguyễn Thái Hòa chủ nhiệm lớp, dạy văn cùng lứa bạn bè có thân phận rủi ro như tôi, rất thích những bài thơ tôi viết những năm trước đó. Tôi viết để tự giãi bày tâm trạng và cảnh ngộ của mình chứ không hề nghĩ sẽ làm nên cái gì cả. Loay hoay chuyện học, sau này tôi phải bươn chải lấy tiếp cái bằng khoa văn Trường Đại học Tổng hợp Huế lúc mà tôi đã có tập thơ đầu tay do các nhà thơ Thanh Hải, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyên Ngọc đọc chọn qua một trại viết ở Vĩ Dạ.

Bài thơ đầu tiên của tôi được in trong tập "Thơ Quảng Bình ba năm đánh Mỹ" (1965 - 1967). Tôi được các anh Xuân Hoàng, Trần Nhật Thu, Hải Bằng để ý với cách viết "ngồ ngộ",  khám phá những vấn đề ít người chú ý. Có lẽ vì thế các anh đã nhiệt tình giới thiệu tôi theo học khóa 6, Trường Bồi dưỡng Những người viết văn Hội Nhà văn (1973 - 1974).

Cuối 1973, Tạp chí Tác phẩm mới gặp mặt cộng tác viên, tôi được mời dự. Trên chiếc xe đạp thường xuyên trật xích, tôi đến muộn hai bàn tay xỉn đen vì dầu mỡ. Bằng Việt giới thiệu tôi với mọi người. Nhà thơ Chế Lan Viên kéo tôi ngồi bên cạnh và đẩy đĩa bánh bao cho tôi. Ông nói: "Tôi đã đọc "Làng không nhà" của Thuật. Tạp chí sẽ in chùm cùng bài "Con chim ri rí ". Tốt lắm. Hãy viết theo cách ấy".

Hãy viết theo cách ấy. Tôi không hiểu "cách ấy" là cách nào. Nhưng tôi tin lời phán quyết giống định mệnh khảm vào đời thơ của mình. Sau này, nhiều khi tâm sự với đồng nghiệp, tôi càng nhận ra cái "cách ấy" nó đã nhập sâu vào thơ mình ngay cả những bài viết về tình yêu.

Rồi năm sau, sau chuyến đi thực tế với Ma Văn Kháng, Hà Thị Cẩm Anh cùng một số anh em trong khóa học tại chiến trường Quảng Trị về, Báo Tiền phong in ảnh giới thiệu chùm thơ mới của tôi. Những người trong làng đọc báo họ kéo đến nhà tôi chúc mừng. Anh Nhạn, một nông dân rất thích nghe thơ nói rằng: "Thì ra, đất cát làng ta cũng sinh ra người làm thơ, có lạ không?".  Mẹ tôi ra vườn hái trầu, trẩy cau chiêu đãi. Tôi thấy đôi bàn tay của mẹ tôi run lẩy bẩy. Còn các thầy giáo làng đòi phải có rượu quốc lủi.

Tháng 3 năm 1981, tôi được điều động vào Huế làm ở Nhà xuất bản Thuận Hóa. Gần hai năm đầu anh Hoàng Phủ Ngọc Tường và chị Lâm Thị Mỹ Dạ giao căn hộ ở khu cư xá Nguyễn Trường Tộ cho mấy cha con tôi tạm trú. Anh Tường vào Sài Gòn theo công việc, chị Dạ học Trường Viết văn Nguyễn Du ở Hà Nội. Căn hộ này trước đây nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, các nhà văn Ngụy Ngữ, Nguyễn Quang Hà từng sống. Tại đây tôi được đọc thêm một số sách quý hiếm mà các nhà xuất bản ở miền Bắc chưa có điều kiện dịch.

Những cuộc chuyển dịch gia đình từ Quảng Bình vào Huế, rồi từ Huế lại ra Quảng Bình đối với tôi rất có ích. Gần mười năm sống ở Huế, là mười năm bơi trong dòng văn hóa tâm linh kỳ diệu, mười năm trắc nghiệm văn chương. Về lại Quảng Bình tôi càng hiểu sâu hơn thế nào là quê hương sau chiến tranh, sau li cách. Tôi yêu da diết mảnh đất này dù còn nghèo khó với trăm bề thiếu thốn, hẫng hụt. Tôi yêu những gương mặt lam lũ, sạm nắng, sạm mưa, trầm lặng nhiều khi thiếu nét phong hoa. Nhưng họ đã cho tôi một chỗ đứng khi viết về những gì của đời thường lắm day dứt, nghiệt ngã, lắm thương cảm.

Năm 1991, anh Phùng Quán từ Hà Nội vào thăm tôi. Anh ở lại nhà tôi độ hai tuần lễ. Sáng nào vợ tôi cũng để sẵn một đĩa cà pháo, một chén con ruốc Bảo Ninh và góc chai rượu cho anh ấy. Trong khi đó tôi phải ngồi viết đi viết lại bản kiểm điểm dài tới năm, sáu trang đánh máy gửi lên trên. Nội dung chỉ để giải thích tôi đã đưa Phùng Quán đi những nơi đâu, nói những chuyện gì, đọc thơ cho những ai nghe.

Tôi trả lời rằng: Anh là tác giả bộ tiểu thuyết ba tập "Tuổi thơ dữ dội", vừa được dựng phim chiếu trong những ngày vừa qua. Sự ấu trĩ trong nhận thức một số người nhiều khi cũng phiền hà rắc rối. Hồi ở Huế, sau mấy chục năm xa, Phùng Quán mới có dịp về thăm quê. Trong đêm sinh hoạt văn chương tại 26 Lê Lợi, trụ Sở Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên bấy giờ, Phùng Quán xuất hiện giữa chừng. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không ngần ngại giao cho tôi giới thiệu anh và mời anh lên đọc thơ.

Tôi có việc phải đi Minh Hóa, một huyện miền núi. Vài ngày sau Phùng Quán lên nhà Hải Kỳ, bạn tôi. Anh ấy thích uống rượu có bạn bên cạnh. Con người đó có một nghị lực phi thường trong thơ ca và trong tình yêu Tổ quốc. Cái giọng đọc thơ và gương mặt anh muốn nói rằng: Thơ ca bao giờ cũng có cái giá của nó.

nhà văn phùng quán.jpg -1
Nhà văn Phùng Quán.

Tôi quan niệm chỉ có một loại thơ và một loại độc giả. Tôi gửi thơ đăng ở tờ báo địa phương cũng ngang với việc gửi cho tờ Báo Văn nghệ, Văn nghệ Quân đội, Tác phẩm mới vậy. Nhưng chính báo địa phương cố chọn một thứ thơ theo họ "dễ đọc, đừng làm người ta suy ra thế này, thế khác" thành ra tôi được in ở đấy rất ít. Các báo Văn nghệ, Văn nghệ Quân đội, Tạp chí Sông Hương, Tác phẩm mới, Tạp chí Văn cưu mang tôi nhiều hơn. Đó cũng là điều may mắn, nếu không thơ biết tìm con đường nào để đến với độc giả.

Tháng 4 năm 1998, tôi được điều động qua làm việc ở cơ quan Thường trực Hội đồng Nhân dân, công việc ở Hội Văn học Nghệ thuật kiêm nhiệm thêm một thời gian cho đến tháng 9. Nhiều người cho rằng tôi đã quăng bút chạy làng văn nghệ. Không! Tôi nhận ra nơi này mình vẫn tìm được nhịp điệu mới cho thơ. Tôi cảm thông với những người cầm bút hơn, cũng như cảm thông với bao cảnh ngộ ngang trái khác.

Tôi lăn lộn với các tộc người như Rục, Arem, Macoong, Mã Liềng nơi những bản làng xa xôi hoang dã. Trong họ có phần của mình. Những bữa ăn chung với họ, những đêm thức trắng cùng núi rừng cho tôi tìm thấy những câu thơ người ta viết theo mùa vụ, những câu thơ đưa đẩy, những câu thơ viết cho được lòng ai đó chẳng có ý nghĩa gì, đôi khi còn tai hại với người đọc nữa.

Nếu ai đó hỏi: “Điều gì làm cho anh đau khổ nhất?”. Tôi trả lời, đó là thơ. Với tôi, hầu như tất cả những bài thơ viết ra đều xuất phát từ một chuyện buồn, một sự cô đơn, vật vã. Ngay những bài thơ gọi là có tính xã hội hoành tráng, nó cũng được gọi lên sau bao nỗi dâu bể, trầm cảm. Câu thơ vui cũng hình thành từ nước mắt.

Hình như tôi chưa làm được bài thơ nào trong trạng thái hả hê, thoả mãn. Tôi nhận ra rằng khi tâm cảm anh được dồn nén, đến mức nào đó, thơ sẽ xuất hiện. Có những bài thơ tôi viết ra chỉ trong khoảnh khắc như: "Đọc trên vở bao thuốc lá", "Thế giới bàn tay trái", "Mùa thu ơi", "Biển cháy" và gần đây: "Thi sĩ đen", "Di sản", "Người điên", "Hạt cúc Thăng Long" chẳng hạn. Trong trường hợp này, tôi nghĩ có ai đó viết hộ cho mình, chứ bản thân không thể làm được.

Hoàng Vũ Thuật

ANH ĐỢI

Trên đồng cỏ mượt mà loài dế nỉ non bài hát tuổi thơ
về một thế giới xanh bất tận
trên cát bỏng xương rồng khô khan tua tủa gai nhọn
chọc thủng trời sâu
trên sóng bạc đầu truyền kiếp hải âu sải cánh dệt miền huyền thủy
trên mây tím thổn thức ngàn năm trôi dạt không chốn nương thân
trên dư vị hoàng hôn đánh thức chán chường cây lá dưới nắng và gió
anh đợi
trên giá đỡ những trang sách mở ra số phận cay đắng hạnh phúc
chiến tranh hòa bình
trên bả hư danh thừa mứa quyền uy hăm hở dối lừa
ngông nghênh tăm tối
trên pháp trường lởn vởn hồn oan xơ xác mong nhìn thấy ánh sáng
trên sương mù bóng mẹ liêu xiêu sớm khuya đi về quang gánh oằn vai
trên giường chiếu khổ đau bần hàn lam lũ hết đời này sang đời khác
trên mâm cơm đầu mùa bung nở ríu rít trẻ con bát đũa lanh canh
anh đợi
trên hứng khởi người tìm bóng tối với những ngôi sao cuồng chết bên gốc dứa dại
trên nỗi giận hờn cánh cửa đóng sập sau lưng
trừng phạt ghen tuông mù mì
trên trái chín run rẩy cặp môi tình nhân ngọt ngào nước mắt đoàn tụ
trên cánh bay giấc mơ hoang tưởng và hiện thực chồng chéo tan chảy
trên tuyệt vọng rơi rơi rơi hun hút chín tầng âm u
anh đợi
đất đợi mưa
hạt đợi mầm
đêm đợi ngày
diều đợi gió củi đợi lửa
đứa bé ngây ngô đợi bụt hiền hiện ra ban phép lạ
anh đợi. 

Hoàng Vũ Thuật
.
.