Danh nhân Lê Quý Đôn và di sản vượt thời gian

Chủ Nhật, 16/11/2025, 15:32

Danh nhân Lê Quý Đôn vừa được tổ chức văn hóa giáo dục khoa học của Liên hiệp quốc UNESCO thông qua nghị quyết tôn vinh và tham gia cùng Việt Nam đăng cai lễ kỷ niệm 300 năm ngày sinh của ông vào năm 2026. Đây cũng là dịp để công chúng hôm nay tìm hiểu kỹ lưỡng hơn về di sản Lê Quý Đôn trong hành trình phát triển của dân tộc Việt Nam.

Danh nhân Lê Quý Đôn sinh ngày 5/7/1726 tại Duyên Hà, Thái Bình (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Thân phụ của ông tiến sĩ Lê Trọng Thứ từng đảm nhiệm chức vụ Hình bộ Thượng thư. Thuở nhỏ, Lê Quý Đôn đã nổi tiếng thông minh và hay chữ, mà tiêu biểu là bài thơ "Rắn đầu biếng học" vẫn còn lưu truyền đến bây giờ: "Chẳng phải liu điu cũng giống nhà/ Rắn đầu biếng học lẽ không tha/ Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ/ Nay thét mai gầm rát cổ cha/ Ráo mép chỉ quen tuồng lếu láo/ Lằn lưng cam chịu vệt dăm ba/ Từ nay Trâu, Lỗ xin siêng học/ Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia".

a.jpg -0
Danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn (1726-1784).

Năm 1752, ông thi đỗ bảng nhãn và bắt đầu làm quan dưới triều vua Lê Ý Tông. Có tài thao lược, danh nhân Lê Quý Đôn không chỉ làm việc ở Quốc sử quán, mà từng tham gia dẹp loạn Lê Duy Mật ở Thanh Hóa và đi sứ sang Trung Quốc. Ngày 11/6/1784, ông mất ở quê mẹ Duy Tiên, Hà Nam (nay thuộc tỉnh Ninh Bình). Vua Lê Hiển Tông và chúa Trịnh Khải đã cho bãi triều ba ngày để bày tỏ niềm tiếc thương ông.

Tại kỳ họp thứ 43 vừa diễn ra ở thành phố Samarkand, Cộng hòa Uzbekistan, UNESCO đã thông qua Nghị quyết vinh danh và tổ chức kỷ niệm 300 năm ngày sinh danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn vào năm 2026.

Như vậy, danh nhân Lê Quý Đôn là gương mặt thứ 8 của Việt Nam được UNESCO tôn vinh, sau danh nhân Nguyễn Trãi, danh nhân Hồ Chí Minh, danh nhân Nguyễn Du, danh nhân Chu Văn An, danh nhân Hồ Xuân Hương, danh nhân Nguyễn Đình Chiểu và danh nhân Lê Hữu Trác.

Di sản Lê Quý Đôn gồm nhiều tác phẩm giúp công chúng đời sau có thêm nhiều kiến thức về lịch sử, địa lý, phong tục, văn chương, triết học… Di sản Lê Quý Đôn sau ba thế kỷ vẫn còn sức ảnh hưởng đến cộng đồng, có thể kể "Phủ biên tạp lục", "Kiến văn tiểu lục", "Bắc sứ thông lục", "Toàn Việt thi lục", "Vân đài loại ngữ", "Quần thư khảo biện", "Âm chất văn chú", "Thưởng tâm nhã tập"…

kien van tieu luc.jpg -1
Tác phẩm “Kiến văn tiểu lục”, bản in năm 2013.

Có tầm vóc một nhà bác học, danh nhân Lê Quý Đôn có những kiến giải bao quát về mọi mặt đời sống. Trong di sản Lê Quý Đôn, dễ dàng nhận diện thái độ cống hiến của ông: "Kẻ sĩ ra làm quan hành chính, có phải chỉ ung dung ở chốn miếu đường, bàn bạc văn nhã và tỏ vẻ đức vọng mà thôi đâu. Có khi phải tuần xét biên giới, mà chịu trách nhiệm một phương thì phải nghĩ làm sao để vỗ về binh nông, dấy lợi trừ hại, đổi dời phong tục, hết khả năng tâm lực mà làm điều chức phận nên làm".

Sống giữa chốn quyền quý, nhưng danh nhân Lê Quý Đôn vẫn cảnh tỉnh những mặt trái của xã hội phong kiến. Ông đặt vấn đề: "Thiên tử cùng các quan đại phu hằng ngày ăn mặc, đều lấy ở đâu? Người nông dân suốt năm cần cù lao động không được nghỉ ngơi một lúc nào, đến mùa mới có sự vui mừng thu hoạch. Những hạt cơm trên mâm đều là tận khổ của người nông dân… Đã không hiểu sự vất vả của dân, thì sinh ra phóng dật, đã phóng dật thì tiêu dùng xa xỉ, đã tiêu dùng xa xỉ thì hại của, đã hại của thì nhất định hại dân". Và ông khuyên nhủ: "Muốn hưởng mệnh trời lâu dài mà không chăm lo đời sống của dân, thì thật không hiểu lẽ phải là gì vậy".

Có thể khẳng định, di sản Lê Quý Đôn là một sự nghiệp đồ sộ, góp phần quan trọng cho nhân loại hôm nay tìm hiểu văn hóa Việt Nam. Trong "Bắc sứ thông lục", ông công bố những bài văn xuôi đầu tiên của người Việt được viết bằng chữ Nôm. Trong "Vân đài loại ngữ", ông thống kê được người Việt có tất cả 201 loại lúa và tư vấn "phép làm cho tốt ruộng, thì nên trồng đậu xanh trước đã".

Đặc biệt, trong "Phủ biên tạp lục", danh nhân Lê Quý Đôn đã có những ghi chép tỉ mỉ và thuyết phục về đời sống Đàng Trong. Ở chương "Vật sản phong tục", ông viết: "Xứ Thuận Hóa, Hương giang cá sông nhiều, có giống cá tên là cá thệ, mình nhỏ đầu dẹp, tục dùng làm mắm. Cửa Eo có thứ tôm biển lớn hơn ở miền đông nam, tục gọi là tôm hùm". Đồng thời, ông cũng cho biết: "Gia Định rất nhiều cau. Ngạn ngữ nói "Gia Định nhất thóc nhì cau", dân địa phương thường bỏ không thu, cau già lấy hột bán cho người Tàu". 

Bộ sách "Kiến văn tiểu lục" của danh nhân Lê Quý Đôn gồm 12 phần tương đương 12 quyển. Đáng tiếc, bốn phần "Thể lệ hạ", "Phong vực trung", "Phong vực hạ" và "Phương thuật" thì đời sau đã không lưu trữ được. Tám phần còn lại, gồm "Châm cảnh", "Thể lệ thượng", "Thiên chương", "Tài phẩm", "Phong vực", "Thiền dật", "Linh tích" và "Tùng đàm" cũng đủ chứng minh đẳng cấp một bậc kỳ tài có học vấn uyên thâm và trí tuệ vượt trội.

Trong phần "Châm cảnh" kiến giải những triết ngôn và hành động của giới tinh hoa, danh nhân Lê Quý Đôn bàn về quan hệ giữa thế sự và văn chương: "Thiên hạ hàng vạn tập quán khác nhau, sự vật thích hợp khác nhau, cả đến ăn uống, đồ mặc, đồ dùng và yêu muốn đều khác nhau rất xa. Thánh nhân trị dân cần ở chỗ làm cho dân được yên mà thôi. Cho nên, sửa giáo hóa về tam cương ngũ thường mà không thay đổi phong tục, thống nhất chính sách về hiệu lệnh thưởng phạt mà không thay đổi sự việc đã thích nghi.

Dùng lễ văn để tô điểm trang sức quan trong nhất thời, mà làm cho dân phải hao tốn cơ nghiệp sinh sống, thì cũng không dùng làm gì. Thêm bớt thay đổi, do ý nghĩ một mình, mà làm cho dân trái mất tính thường, thì cũng không cần thay đổi làm gì. Văn chương tiếp tục, chuyển biến luôn luôn, từ chất phác mà tiến lên văn vẻ, từ mộc mạc mà tiến lên hoa mỹ, đều có thời kỳ, nhưng cốt sao phải cho đúng lẽ. Nếu quá văn hoa rồi đi đến phù bạc thì không bằng chất phác lại còn hơn".

Trong phần "Tài phẩm", danh nhân Lê Quý Đôn có những đánh giá rành mạch về những tên tuổi in dấu trong chiều dài lịch sử dân tộc Việt Nam. Về trạng nguyên Lương Thế Vinh (1441-1496), ông viết: "Lương Thế Vinh tài hoa danh vọng vượt bậc, đến nay người ta còn gọi là "trạng Lường", nhưng văn chương lưu hành ở đời chỉ có bài sách đình đối, bài ký chùa Diên Hựu và mấy bài bia, bài ký mà thôi".

phu bien tap luc.jpg -2
Tác phẩm “Phủ biên tạp lục”, bản in năm 1977.

Về Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (1528- 1613), ông viết: "Phùng Khắc Khoan phụng mệnh đi sứ, tuổi đã ngoài 70, không những biện bạch quang minh chính đại, đạo đạt được mệnh lệnh của vua, làm mạnh mẽ được thể chế trong nước. Đến như ba mươi vần thơ dâng mừng khánh tiết và hơn hai mươi vần thơ đáp lại chánh phó sứ nước Triều Tiên, tài tứ chứa chan, cách điệu tươi đẹp, y như lúc còn tuổi trẻ. Như thế, chả phải là được linh khí núi sông giúp đỡ đấy ư?".

Còn về sư Huyền Quang (1254-1334), ông viết: "Người thời nhà Trần, học rộng, thơ hay. Trong "Việt âm thi tập" có chép một bài thất ngôn tuyệt cú của thiền sư, thì tựa hồ không phải khấu khiếu nhà chùa, còn bài ngũ ngôn và bài thất ngôn thì lời thơ cũng phăng phẳng. Trong "Trích diễm thi tập" cũng có chép một bài ngũ ngôn tuyệt cú và 21 bài thất ngôn tuyệt cú của thiền sư, thì thơ văn tinh tế, rất có khí tượng cao siêu".

Đọc "Kiến văn tiểu lục", độc giả hôm nay không chỉ biết được cương thổ của tổ tiên và gốc tích của sông núi, mà còn được chia sẻ những chiêm nghiệm sâu sắc. Ở thời đại hội nhập, con người theo đuổi lợi ích vật chất phải dành nhiều mối ưu tư đến sự cân bằng cuộc sống giữa nhịp điệu ganh đua chen lấn ngột ngạt, thì vấn đề tâm lý ấy đã được danh nhân Lê Quý Đôn nhận diện cách đây gần ba thế kỷ:

"Phàm người ta phần nhiều vì sự việc làm trở ngại lý trí, vì ngoại cảnh làm trở ngại chân tâm, thường muốn tránh ngoại cảnh cho yên tâm. Xa sự việc để giữ lý, mà không biết rằng, như thế là tâm làm trở ngại cảnh, lý làm trở ngại việc. Vậy cốt sao cho tâm không thiên lệch vào một cảnh nào, thì mọi cảnh tự khắc hư không. Lý trí đã tĩnh tịch thì ngoại cảnh tự tĩnh tịch, tự mình chớ có làm đảo lộn chân tâm". 

Tuy Hòa
.
.