Có một nhà lao đặc biệt
Đà Lạt thường được nhắc đến là chốn bình yên, là nơi thi nhân mặc khách tìm đến sự an nhiên lãng mạn. Thế nhưng giữa lòng xứ sở mộng mơ ấy, lại tồn tại một địa chỉ đỏ, đặc biệt, độc nhất trên thế giới, Nhà lao Thiếu nhi Đà Lạt.
Di tích Nhà lao thiếu nhi Đà Lạt nằm trên đường Hồ Xuân Hương, cách thắng cảnh hồ Than Thở một quãng không xa, được bao quanh bởi những ngôi biệt thự phủ đầy hoa, giữa hàng mai anh đào xanh mướt ngày hè, rực rỡ ngày xuân. Nếu không có chiếc cổng đề tên, ít ai biết rằng nơi xinh đẹp ấy từng là chốn lao tù giam giữ những chiến sĩ nhỏ tuổi trong cuộc đấu tranh chống Mỹ của thế kỷ trước, ghi dấu sự tàn khốc của giai đoạn chiến tranh đã qua.

Ngay cả trong thời gian tồn tại cách đây 54 năm, những người dân xung quanh nhà lao cũng không biết bản chất của nơi này, bởi nó được ngụy trang với cái tên mỹ miều nhằm đánh lạc hướng dư luận, “Trung tâm Giáo huấn Thiếu nhi Đà Lạt”. Thực chất đây là nơi giam giữ các chiến sĩ Cộng sản từ 12 - 17 tuổi, tập trung từ các nhà tù miền Nam (từ vĩ tuyến 17 trở vào) lúc bấy giờ.
Quay lại lịch sử giai đoạn những năm 1968 - 1970, cuộc đấu tranh cách mạng diễn ra mạnh mẽ khắp miền Nam, đã tác động đến phong trào đấu tranh tại các nhà tù làm cho chế độ Việt Nam Cộng hòa lúng túng. Về phía chúng ta cũng gặp nhiều tổn thất, không ít chiến sĩ, người dân đã ngã xuống, bị địch bắt tù đày, trong đó có những tù nhân ở tuổi thanh thiếu niên. Đây là lực lượng ảnh hưởng không nhỏ đến ý chí chiến đấu, là lớp kế thừa tinh thần bất khuất của các bậc cha anh. Do đó, địch đã nghĩ ra cách tách rời hai lực lượng này để không còn có sự tiếp ứng, hỗ trợ cho nhau, cách ly số tù nhân dưới 18 tuổi ra khỏi tù nhân lớn tuổi, nhằm làm giảm sức chiến đấu, từ đó đàn áp, thủ tiêu tinh thần cách mạng của thế hệ trẻ miền Nam.
Với âm mưu thâm độc đó, Trung tâm Giáo huấn Thiếu nhi Đà Lạt được dựng lên vào đầu năm 1971 với quy mô lớn, đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Tổng nha Cảnh sát Sài Gòn. Sau khi xây dựng cơ sở xong, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đưa các tù chính trị nhỏ tuổi từ các nhà tù miền Nam về giam giữ. Đợt đầu tiên vào ngày 23/4/1971, gồm 126 tù thiếu nhi từ nhà lao Kho Đạn (Đà Nẵng). Sau đó từ các nhà lao Hội An, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Bến Tre, Côn Đảo, Chí Hòa và nhiều nhà tù khác, lúc nhiều nhất lên đến hơn 600 người, trong đó khoảng 200 nữ.
Để che mắt dư luận, nơi đây cũng đặt ra các ban bệ giống một Trung tâm Giáo huấn như, Ban an ninh, Ban cải huấn, Ban hướng nghiệp, Ban giám thị… thực chất là để đàn áp phong trào đấu tranh của các tù nhân; ru ngủ, xuyên tạc làm lung lạc lý tưởng cách mạng của tù nhân thiếu nhi. Trong đó Ban giám thị gồm những tên cai ngục, quản đốc có “thành tích” và “kinh nghiệm” tra tấn tù nhân ở nhiều nhà lao miền Nam được tuyển chọn về.
Nhà lao được thiết kế thành một khối chữ nhật khép kín với tường đá bao quanh, với rất nhiều cuộn dây kẽm gai ken dày trên mái. Hai dãy nhà dọc gồm 8 phòng giam (6 phòng nam, 2 phòng nữ), mỗi phòng rộng khoảng 50m2, có lúc giam gần trăm người, tù nhân chỉ giao tiếp với bên ngoài thông qua 2 lớp cửa kiên cố nhưng lúc nào cũng đóng kín.
Khu biệt giam dành cho tù nhân chống đối gồm 3 dãy xà lim, mỗi dãy có 4 xà lim tối tăm, chật hẹp, ẩm ướt, lạnh lẽo. Đặc biệt, có một hầm đá xây khuất sau hành lang xà lim, không có mái che mà chỉ có lưới kẽm gai chăng dày bên trên dành cho hình phạt phơi sương, phơi nắng những tù nhân “nguy hiểm”. Án ngữ phía mặt tiền là khối nhà chữ A, từ ngoài trông vào giống như những tòa nhà bình thường khác, là nơi làm việc của bộ máy cai quản nhà lao.
Bên trong vẻ bình yên của “Trung tâm Giáo huấn” là đời sống lao tù khắc nghiệt. Sinh hoạt hàng ngày của các tù nhân thiếu nhi chỉ trong phạm vi bốn bức tường lạnh lẽo, chỉ được ra ngoài theo giờ để lao động, tắm nắng. Chế độ ăn uống vừa đủ cầm hơi, mỗi người một nắm cơm nhỏ kèm vài hạt muối và một ca nước. Tù nhân bị còng chéo từng người hoặc còng vòng tròn với nhau, thường xuyên bị cai ngục và trật tự đánh đập hành hạ bằng dùi cui, roi điện, roi kẽm gai, dùng bóng đèn cao áp nóng ấn vào mặt…

Những tù nhân thiếu nhi chống đối bị đưa vào khu biệt giam với nhiều hình thức tra tấn dã man. Vào mùa đông, khi nhiệt độ ban đêm có lúc xuống dưới 15°C, các chiến sĩ phải nằm dưới sàn nhà lạnh buốt, kẻ địch còn dội thêm nước lạnh để hành hạ. Những tù nhân bị nhốt vào hầm đá chịu phơi sương, phơi nắng dưới thời tiết khắc nghiệt của cao nguyên. Các chiến sĩ san sẻ cho nhau từng hạt cơm, ngụm nước, chỗ nằm, dựa vào nhau sưởi ấm, động viên nhau vượt qua, dù thể xác bị tổn thương, tinh thần cách mạng vẫn luôn nguyên vẹn.
Đã có kinh nghiệm từ các nhà tù trước đó, ngay khi được đưa tới tập trung tại Nhà lao Thiếu nhi Đà Lạt, các chiến sĩ nhỏ tuổi đã tập hợp lực lượng nòng cốt, thành lập bộ phận chỉ huy, đề ra các yêu sách cụ thể để tiến hành các biện pháp đấu tranh liên tục, bền bỉ, xuyên suốt quá trình tồn tại ở nhà lao.
Mỗi sáng thứ Hai, tất cả tù nhân phải tập trung để chào cờ và hát quốc ca. Những ai chống đối, không chào cờ, không hát quốc ca sẽ bị tra tấn cho đến khi khuất phục. Sân chào cờ chính là nơi thể hiện rõ ý chí ngoan cường của các chiến sĩ nhỏ tuổi, cũng là ranh giới chiến đấu của hai bên. Ngay từ buổi đầu tiên, các chiến sĩ nhỏ tuổi đã chống chào cờ để giữ vững khí tiết cách mạng, tinh thần chiến đấu và tấn công tên cai ngục khát máu Xăm Pôn, từng đi lính cho Pháp và có “kinh nghiệm” tra tấn tù nhân Côn Đảo.
Trong thời gian 2 năm 3 tháng tồn tại, các chiến sĩ nhỏ tuổi đã tổ chức nhiều cuộc đấu tranh chấn động. Đầu tiên là việc tự mổ bụng để phản đối chào cờ vào ngày 21/11/1971. Theo kế hoạch, 5 chiến sĩ mổ bụng ngay tại sân chào cờ để phản đối sự đàn áp của địch. Có 3 chiến sĩ tự mổ bụng được, còn 2 chiến sĩ chưa kịp hành động đã bị địch phát hiện và khống chế. Các chiến sĩ thiếu nhi ấy đã biến đớn đau da thịt thành hành động đấu tranh bất khuất khiến kẻ thù hoảng sợ. Một sự kiện chấn động khác vào tối ngày 23/1/1973 các tù nhân thiếu nhi tổ chức tiêu diệt tên cai ngục Nguyễn Cương, vốn là chiến sĩ của ta chiêu hàng, cam tâm làm tay sai cho giặc. Tuy không thể kết liễu nhưng đã khiến hắn trọng thương, phải đi viện điều trị 3 tháng.
Trước tình hình đấu tranh ngày càng lên cao của các chiến sĩ, địch âm mưu cho lăn tay, chụp ảnh tất cả số tù thiếu nhi còn lại (khoảng 560 người) nhằm làm sai lệch hồ sơ để biến họ từ những thiếu nhi tự nguyện tham gia phong trào đấu tranh của miền Nam thành những can phạm hình sự thông thường. Các chiến sĩ đã chống cự quyết liệt, không chấp nhận lăn tay, chụp ảnh; đồng thời lên kế hoạch cho một cuộc nổi dậy quy mô lớn để làm chủ tình hình. Ngày 22/2/1973, cuộc đấu tranh làm chủ nhà lao đã nổ ra và giành nhiều thắng lợi, các chiến sĩ phát loa kêu gọi người dân xung quanh đứng lên ủng hộ cuộc đấu tranh trong tù. Bấy giờ dư luận mới biết đến một nhà lao đặc biệt khi tất cả tù nhân đều ở tuổi thiếu nhi, dẫn tới việc buộc nó phải giải tán vào tháng 6/1973.
Ngày 22/6/2009, Nhà lao Thiếu nhi Đà Lạt đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là Di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia. Tập thể cựu tù chính trị và 3 cá nhân gồm Đặng Bảo Xy, Ngô Tùng Chinh và Mai Thanh Minh đã được Chủ tịch nước tặng thưởng danh hiệu cao quý Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân để ghi nhớ công lao của các chiến sĩ.
Hơn nửa thế kỷ trôi qua, các chiến sĩ xưa người còn người mất. Những kỷ vật trong những tháng năm giam cầm tại nhà lao được lưu giữ trong phòng trưng bày, từ tấm áo nhỏ xíu, từ bộ đồ may từ nhiều mảnh vải xin được, khăn áo len các chiến sĩ đan tặng nhau, bộ đồ dùng chung của các anh em tù, bức tranh thêu khéo léo, tỉ mỉ thể hiện khát vọng tự do của những tù nhân nhỏ tuổi khiến người xem không khỏi bồi hồi, cảm phục…
Tôi đến thăm Nhà lao thiếu nhi Đà Lạt vào một buổi trưa đầy nắng, dù hơn 50 năm, dù các gian phòng kín xưa kia được mở cửa thông thoáng đón nắng đón gió, thắp điện sáng choang nhưng không khí bên trong vẫn âm u rờn rợn. Nhìn những dụng cụ tra tấn, những mô hình tái hiện cảnh các chiến sĩ bị hành hạ dã man, ôm nhau ngồi dưới khu xà lim chật chội, bị đánh đập trên sân chào cờ… với người lớn đã quá sức chịu đựng, lại dành cho các chiến sĩ nhỏ tuổi.
Tôi cứ rùng mình xót xa, cảm nhận nỗi đau xâm nhập vào thịt da, tâm khảm; vô cùng cảm phục ý chí kiên cường của thế hệ cha anh, nỗi đau thể xác không khuất phục được tinh thần anh dũng “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Thắp nén hương tưởng niệm các vị anh hùng, nhìn làn khói trắng hòa vào bầu trời trong xanh, càng thêm trân quý khoảng trời tự do mà cha anh đã dành máu xương đổi lấy.