Chuyện chiến tướng xuất thân làm báo Kháng địch
Trong cuộc đời phong phú của mình, Thượng tướng Trần Văn Quang liên tục xê dịch từ vùng này sang vùng khác, từ chiến trường này sang chiến trường khác khắp Đông Dương. Và ít ai biết rằng vị chiến tướng lẫy lừng trận mạc lại vốn xuất thân từ người làm báo, nghĩa là từ mặt trận văn hóa tư tưởng ông đã bước ra mặt trận quân sự.
Thượng tướng Trần Văn Quang (1917 - 2013) là một trong những vị chỉ huy cao cấp nổi tiếng của Quân đội, từng giữ nhiều trọng trách như: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tổng tham mưu trưởng, Cục trưởng Cục Tác chiến, Trưởng ban Quân sự Nam Bộ, Tư lệnh Quân khu 4, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu Trị Thiên, Tư lệnh kiêm Chính ủy Binh đoàn 678 Quân tình nguyện Việt Nam ở Lào… và Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam đầu tiên suốt 2 nhiệm kỳ, được Nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh và Huân chương Sao vàng. Trong cuộc đời phong phú ấy, ít ai biết rằng chiến tướng Trần Văn Quang vốn xuất thân người làm báo từ trước Cách mạng tháng Tám.
Đại gia đình xả thân vì sự nghiệp cứu nước
Thượng tướng Trần Văn Quang có bí danh Bảy Tiến, tên thật Trần Thúc Kính, sinh năm 1917 ở xã Nghi Hoa, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An trong một đại gia đình trí thức yêu nước. Thân sinh ông là Tú tài Trần Văn Năng, một nhà Nho có uy tín, vừa dạy học vừa làm ruộng.
Đau lòng trước cảnh đất nước bị thống trị bởi quân xâm lược, ông cụ luôn ủng hộ các hoạt động yêu nước và hướng các con theo con đường học vấn, tham gia chống Pháp. Hai người con đầu đã trở thành hai nhà cách mạng kỳ cựu là Trần Văn Tăng và Trần Văn Cung, kế đến là Thượng tướng Trần Văn Quang và người em là Đại tá Trần Văn Bành. Cả bốn anh em đều từng bị thực dân Pháp bắt giam, lưu đày. Những người con dâu họ Trần cũng sánh bước cùng chồng vì sự nghiệp cứu nước.

Anh cả Trần Văn Tăng là giáo viên tiểu học, sớm hoạt động cách mạng, tham gia Hội Phục Việt và sáng lập Đảng Tân Việt, về sau làm Quyền Bí thư Tỉnh uỷ lâm thời Quảng Nam. Ông là người có công thay cha trực tiếp giúp đỡ các em ăn học để thực hiện hoài bão của mình.
Sau khi theo chân người anh cả học hành, Trần Văn Cung thi đậu Trường Quốc học Vinh, tham gia Hội Phục Việt, sau đó cùng Nguyễn Lương Bằng được cử sang Quảng Châu, Trung Quốc dự lớp tập huấn do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tổ chức, rồi gia nhập Hội Thanh niên, tức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội. Về nước, Trần Văn Cung tiếp tục lăn lộn với phong trào, trở thành Bí thư Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam được thành lập tháng 3 năm 1929, tại nhà số 5D Hàm Long, Hà Nội.
Từ năm 1927, khi Trần Văn Tăng đang dạy học ở Hội An đã về quê đón cậu em Trần Văn Quang vào phố cổ để nuôi ăn học. Đến tháng 9/1929, Trần Văn Tăng về lại Nghệ An để gặp Trần Văn Cung bàn việc xây dựng và phát triển cơ sở đảng. Bấy giờ, Trần Văn Cung là Ủy viên Trung ương lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng, đang cùng đồng chí Nguyễn Phong Sắc phụ trách Kỳ bộ Trung Kỳ, vừa tổ chức rải truyền đơn ở Nghệ An kêu gọi quần chúng kỷ niệm ngày phản đối đế quốc gây chiến tranh.
Vì sự kiện này, hai anh em họ Trần mới gặp nhau chưa bao lâu thì đã bị mật thám Pháp bắt cùng một số đồng chí của mình như Vương Thúc Oánh, Ngô Thiêm. Ông Trần Văn Cung bị kết án tử hình, nhưng sau đó Tòa án Nam triều tỉnh Nghệ An xét xử lại chuyển ông xuống án khổ sai chung thân và đày đi Lao Bảo để chuẩn bị đưa đày tận Guyan. Trong khi đó, ông Trần Văn Tăng bị tòa kết án hai năm tù và hai năm quản thúc, tuy nhiên những đòn tra tấn hiểm độc của kẻ thù đã làm ông lâm trọng bệnh và qua đời năm 1930, giữa lúc cao trào đấu tranh Xô Viết Nghệ Tĩnh đang âm ỉ và bùng nổ trên quê hương.
Đứng trước hoàn cảnh éo le của gia đình, Trần Văn Quang phải bỏ học rời Hội An về quê nhà Nghệ An. Không thể để con thất học, cụ Tú tài Trần Văn Năng tìm mọi cách đưa con trở lại trường. Vừa đỡ đần cha mẹ việc ruộng đồng, Trần Văn Quang vừa chăm chỉ học hành, tiếp thu vốn kiến thức cơ bản trước khi dấn thân vào con đường cứu nước.
Đối với một chàng trai xứ Nghệ giàu chí khí thì có thể thiếu cái ăn cái mặc nhưng không thể thiếu chữ. Trần Văn Quang vượt mọi gian khó, học tập không biết mệt mỏi, nổi tiếng văn hay chữ tốt. Vốn liếng tiếng Pháp và tiếng Hán thông thạo của danh tướng tương lai chủ yếu nhờ tiếp thu vào giai đoạn này từ gia đình và nhà trường.
Sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước nên việc Trần Văn Quang tham gia cách mạng là con đường tất yếu. Giữa năm 1935, ông đã được tổ chức liên lạc kết nối và giao làm công việc dân vận, dạy học cho người lao động. Nhờ có trình độ văn hóa và viết chữ đẹp, ông được chuyển lên làm trợ lý văn thư cho lãnh đạo Liên tỉnh ủy Thanh - Nghệ - Tĩnh, sau đó được bầu làm Huyện ủy viên Nghi Lộc khi mới tròn 20 tuổi.
Chiến tướng xuất thân từ Báo Kháng địch
Trong cuộc đời phong phú của mình, Thượng tướng Trần Văn Quang liên tục xê dịch từ vùng này sang vùng khác, từ chiến trường này sang chiến trường khác khắp Đông Dương. Và ít ai biết rằng vị chiến tướng lẫy lừng trận mạc lại vốn xuất thân từ người làm báo, nghĩa là từ mặt trận văn hóa tư tưởng ông đã bước ra mặt trận quân sự.
Tháng 10/1939, sau khi hoàn thành công tác trong Sài Gòn, ông quay về quê hương chưa được bao lâu thì bị mật thám Pháp bắt giam. Đúng một năm sau, ông vượt ngục thành công và được Xứ ủy Trung Kỳ giao nhiệm vụ tổ chức lại Đảng bộ tỉnh Nghệ An. Tuy nhiên, đến tháng 4/1941, ông lại bị bắt lần thứ hai và bị Tòa án thực dân Pháp kết án tù chung thân, đưa đi đày ở Buôn Ma Thuột. Mãi đến tháng 5/1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp, ông thoát khỏi tù tiếp tục hoạt động, tham gia Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nghệ An.
Bấy giờ, Mặt trận Việt Minh liên tỉnh Nghệ An - Hà Tĩnh chủ trương xuất bản tờ Báo Kháng địch để làm cơ quan tuyên truyền, giao cho Trần Văn Quang phụ trách nội dung. Ngày 15/6/1945, Báo Kháng địch ra số đầu tiên, in ly-tô trên nền giấy khổ 50x32cm. Ông cùng với anh trai Trần Văn Cung và những nhà lãnh đạo khác như Nguyễn Xuân Linh, Chu Văn Biên, Nguyễn Tạo,… đã trực tiếp viết bài, tổ chức in ấn và phát hành tận cơ sở.
Ngay từ số báo đầu tiên Trần Văn Quang và Ban Biên tập đã khẳng định trong bài xã luận rằng: “Không quá lạc quan đến chỗ ỷ lại vào Đồng Minh trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, phải nhớ rằng tự do không phải xin là được, nền độc lập của Tổ quốc phải do xương máu của dân tộc đắp xây trước hết. Toàn thể quốc dân, không phân biệt đẳng cấp, tôn giáo, hãy mạnh bạo gia nhập hàng ngũ Việt Minh để trừ phát xít Nhật, kẻ thù số một của nước ta và phá tan mưu mô khôi phục chính quyền của đế quốc Pháp ở xứ này. Không lúc nào bằng lúc này, chúng ta phải sát cánh dưới lá cờ của Việt Minh, chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa để cướp chính quyền, giải phóng dân tộc, dựng nên một nền độc lập chuyên chính hoàn toàn cho nước Việt Nam”.
Báo Kháng địch còn đăng những bài viết tố cáo chính sách bóc lột tàn bạo của phát xít Nhật, cướp bóc lúa gạo dưới hình thức trưng thu, bắt nông dân nhổ lúa trồng đay, trồng dâu nuôi tằm. Trong số gần 2 triệu người chết đói ở miền Bắc năm Ất Dậu 1945, thì riêng tại Nghệ An - Hà Tĩnh có khoảng 42.630 người bị chết, trong đó 2.250 gia đình có người bị chết hoàn toàn. Những thông tin kịp thời ấy đã góp phần nâng cao làn sóng đấu tranh chống xâm lược, đồng thời còn nêu những tấm gương tốt hỗ trợ đồng bào hoạn nạn và Mặt trận Việt Minh.
Dưới sự lãnh đạo của ông Trần Văn Quang, Báo Kháng địch liên tục tăng lượng phát hành, trở thành công cụ tuyên truyền, cổ động hiệu quả cho Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám. Báo Kháng địch số 15 đã ra chuyên đề về cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940, phản ánh sự hy sinh anh dũng của nhân dân vùng đất mới phương Nam và những tội ác đẫm máu mà thực dân Pháp đã gây ra. Có thể nói đây là nghĩa cử của ban lãnh đạo Nghệ Tĩnh và của riêng tướng Trần Văn Quang nặng tình với “duyên” đầu Nam Bộ…
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Từ địa hạt văn hóa tư tưởng, Trần Văn Quang đã bước vào mặt trận quân sự, làm Chủ nhiệm Tham mưu Khu 4 vào tháng 12/1945. Sau đó, ông là Chính ủy sát cánh cùng Tư lệnh Lê Thiết Hùng trong Bộ Chỉ huy Tiếp phòng quân và Khu 4. Đến năm 1948, ông được Bộ Tổng tư lệnh điều vào làm Tư lệnh kiêm Chính uỷ Phân khu Bình Trị Thiên.
Ông bắt đầu trực tiếp tham gia chỉ huy nhiều trận đối đầu với thực dân Pháp. Tài năng quân sự dần được khẳng định. Ông lại được tin tưởng giao thành lập và làm Chính uỷ đầu tiên Đại đoàn 304 vào tháng 3/1950, trước khi được rút về làm Cục trưởng Cục tác chiến Bộ Tổng tham mưu đặc trách Chiến dịch Điện Biên Phủ, trợ lý đắc lực cho Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp cùng quân dân làm nên chiến thắng vẻ vang chấn động địa cầu.