Chùa Đá Trắng và cuộc khởi nghĩa bi tráng Lê Thành Phương

Thứ Sáu, 05/09/2025, 14:12

Chùa Đá Trắng hiện nằm trên đỉnh núi Xuân Đài, sát quốc lộ 1A, đoạn giữa thành phố Quy Nhơn của tỉnh Bình Định với thành phố Tuy Hòa của tỉnh Phú Yên, nay thuộc tỉnh Đắk Lắk. Đường lên chùa lát đá tảng lớn trườn qua con dốc thoai thoải, rộng khoảng bốn mét, dài gần một cây số, xưa vốn nằm trong hệ thống đường thiên lý Bắc - Nam do hai danh tướng Nguyễn Huỳnh Đức và Lê Chất thời đầu nhà Nguyễn trực tiếp chỉ huy sửa sang.

Tổ tiên chúng ta trên đường Nam tiến đã lần đầu đặt chân đến vùng đất Phú Yên vào năm Mậu Dần 1578, mà người tiên phong là Phù Nghĩa hầu Lương Văn Chánh đã dừng ngựa đóng quân tại Bà Đài, sau đổi thành Xuân Đài. Nhiều dinh thự, cơ sở tôn giáo được xây dựng ở đây, trong đó có nhà thờ Mằng Lăng - nhà thờ Thiên Chúa giáo đầu tiên của Phú Yên, cùng những ngôi chùa Phật giáo uy nghiêm, cổ kính mà tiêu biểu là Từ Quang Tự trên núi Đá Trắng gắn liền với cuộc khởi nghĩa của danh nhân Lê Thành Phương.

Công trình nghệ thuật cổ ẩn chứa nhiều điều kỳ lạ

Chùa Đá Trắng hiện nằm trên đỉnh núi Xuân Đài, sát quốc lộ 1A, đoạn giữa thành phố Quy Nhơn của tỉnh Bình Định với thành phố Tuy Hòa của tỉnh Phú Yên, nay thuộc tỉnh Đắk Lắk. Đường lên chùa lát đá tảng lớn trườn qua con dốc thoai thoải, rộng khoảng bốn mét, dài gần một cây số, xưa vốn nằm trong hệ thống đường thiên lý Bắc - Nam do hai danh tướng Nguyễn Huỳnh Đức và Lê Chất thời đầu nhà Nguyễn trực tiếp chỉ huy sửa sang.

chua da trang-.jpg -0
Cảnh quan chùa Đá Trắng.

Từ đỉnh dốc núi có thể phóng tầm mắt bao quát cả vùng sơn thủy hữu tình. Xa xa phía đông nam là đầm Ô Loan với mặt nước “thản nhiên” nổi tiếng trong ca dao. Gần hơn, dòng sông Cái loáng bạc chảy qua cầu phường Lụa, ôm lấy ngọn núi Sơn Chà sừng sững giữa đồng bằng xanh thẳm. Còn phía nam thấp thoáng lăng mộ Anh hùng Lê Thành Phương - thủ lĩnh phong trào Cần Vương, cùng nằm trên dãy núi Đá Trắng.

Nằm ở độ cao gần 100 mét so với mặt nước biển, chùa tọa lạc ngay đỉnh núi Xuân Đài, mặt hướng về biển Đông. Những khối đá trắng phau bao quanh, tôn thêm vẻ lung linh, kỳ bí của chùa.

Tên chữ Nho là Từ Quang Tự hoặc Linh Quang Tự, chùa được tạo lập từ năm Đinh Tỵ - 1797 dưới triều Vua Quang Toản nhà Tây Sơn. Vì vậy, có giả thiết cho rằng sau khi nhà Tây Sơn mất, nhiều quân tướng Tây Sơn đã xuống tóc quy y ở chùa này nhằm tránh sự khủng bố của triều đình vua Gia Long nhà Nguyễn.

Tổ khai sơn của chùa Đá Trắng là thiền sư Thích Diệu Nghiêm, phái Lâm Tế đời thứ 36. Kế theo, có 9 vị sư tổ khác nối nhau trụ trì. Năm Nhâm Dần - 1842, dưới thời vua Thiệu Trị, chùa được tu sửa quy mô, có bia ghi chép sự tích. Đến năm Kỷ Sửu - 1889, chùa được Vua Thành Thái ban sắc tứ.

Trải qua chiến tranh, phần chính của chùa Đá Trắng bị tàn phá, về sau phải dựng lại gần như hoàn toàn mới, nhưng theo giới nghiên cứu thì chùa vẫn giữ được một số đường nét kiến trúc thuở ban đầu. Cổng chùa và đặc biệt là khu vườn mộ tháp còn nguyên vẹn, thể hiện rõ nét nghệ thuật kiến trúc cổ. Với quy mô lớn nhỏ, cao thấp khác nhau, tất cả các bảo tháp đều được trang trí hoa văn, phù điêu và tượng thú một cách tinh xảo phong phú. Từ tượng hổ đến tượng nghê, kỳ lân… đều toát lên sức mạnh phi thường trong nhiều tư thế khác nhau. Khu mộ tháp cổ là phần quan trọng hình thành chỉnh thể độc đáo toàn cảnh chùa Đá Trắng.

Bên cạnh đó, những phiến đá lát lớn tạo nên con đường từ Quốc lộ 1A lên cổng chùa, cũng có một ý nghĩa đáng kể về mặt xây dựng. Tuy không kỳ vĩ bằng những khối đá khổng lồ xây nên Kim tự tháp ở Ai Cập, nhưng những viên đá được đẽo khéo léo, công phu với nhiều kiểu dáng khác nhau, nối dài hàng cây số đã cho thấy óc thẩm mỹ lẫn công tích lớn lao của người xưa…

Nhà khảo cổ học Phan Đình Phùng nói với chúng tôi rằng, chùa Đá Trắng là chùa tổ và là một trong những ngôi chùa cổ nhất của Phú Yên. Ngôi chùa này còn ẩn chứa nhiều điều kỳ lạ về nghệ thuật, tâm linh cần nghiên cứu, khám phá. Đồng thời đây còn là di tích lịch sử gắn liền với sự nghiệp của những lãnh tụ chống Pháp như Lê Thành Phương, Võ Trứ, Trần Cao Vân…

Pháo đài nghĩa quân Cần Vương của thủ lĩnh Lê Thành Phương

Trường thi Bình Định đầu tháng 8/1885. Tin từ Huế dồn dập loan đến. Kinh đô đã thất thủ. Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi chạy ra sơn phòng xuống chiếu Cần Vương. Sĩ tử Phú Yên lập tức bỏ thi về quê. Ngày 15/8/1885, ở Bình Định, thủ lĩnh Mai Xuân Thưởng dựng cờ Cần Vương khởi nghĩa. Cùng ngày, giới sĩ phu Phú Yên cũng tập hợp lại, xây dựng đội ngũ tổ chức chống Pháp.

untitled-6.jpg -1
Cây xoài chùa Đá Trắng được công nhận “Cây di sản”.

Tại huyện Tuy An, sau khi làm lễ tế cờ, đọc chiếu Cần Vương, thủ lĩnh Lê Thành Phương được tất cả nghĩa quân Phú Yên, từ các bậc sĩ phu đến giới quan lại đồng lòng suy tôn làm thống soái, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa trong toàn tỉnh. Đến tháng 1/1886, Vua Hàm Nghi cử sứ thần từ Kinh đô Huế vào chính thức tấn phong Lê Thành Phương làm Tổng thống quân vụ đại thần (Nguyên soái) của triều đình Cần Vương.

Lê Thành Phương sinh tháng 3/1825, là nhân vật tiêu biểu cho tầng lớp sĩ phu yêu nước của Phú Yên thế kỷ XIX. Vốn có tiếng thông minh, học giỏi, ông đỗ Tú tài nhưng từ chối làm quan, lui về quê dạy học và phụng dưỡng cha mẹ. Bà con ở quê hương gọi ông là Tú Phương.

Mặc dù ở ẩn nhưng Lê Thành Phương vẫn luôn theo dõi thời cuộc, lo lắng trước vận mệnh đất nước. Uy tín Tú Phương có sức cảm hóa mãnh liệt nhân dân trong vùng và anh tài khắp nơi tìm đến. Ông cũng được những vị quan chủ chiến của triều đình nhà Nguyễn là Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Tri Phương quý mến, đặt nhiều kỳ vọng. Năm 1875, trong vòng 48 ngày công cán ở Phú Yên, Ngô Quang Bích cũng tìm đến thôn trang gặp Lê Thành Phương bàn việc quốc sự. Từ Nam Kỳ, Nguyễn Thông cũng bôn ba ra Phú Yên tương ngộ người đồng chí hướng…

Ngay tại quê hương Phú Yên, Lê Thành Phương kết giao với nhiều sĩ phu yêu nước mà sau này trở thành các cộng sự đắc lực cho ông như: Nguyễn Lễ, Nguyễn Hào Sự, Nguyễn Sách, Bùi Giảng, Hồ Trọng Đìa, Nguyễn Hữu Dực, Nguyễn Duy Tân, Ngô Kiêm Ký, Võ Thiệp, Nguyễn Văn Thành, Trần Đôn, Trần Hợi, Huỳnh Tần, Bùi Đáng…

Sau khi được nghĩa quân Cần Vương Phú Yên phó thác trọng trách, Thống soái Lê Thành Phương phiên chế binh lính, cắt đặt chỉ huy trong toàn tỉnh. Cuối tháng 8/1885, ông ra lệnh cho Thống tướng kỵ binh Bùi Đáng chỉ huy một cánh quân phối hợp với quân thứ Phù Mỹ thuộc Bình Định tiến ra Quảng Ngãi và Quảng Nam đánh Nguyễn Thân, mở đường liên lạc với phong trào Cần Vương ở Bắc Trung Bộ. Đồng thời, Phó soái Bùi Giảng được ông giao quyền chỉ huy một đạo quân vượt qua Khánh Hòa tiến vào Bình Thuận nhằm mở đường liên kết phong trào Cần Vương ở tất cả các tỉnh Nam Trung Bộ.

Chỉ trong vòng bốn tháng, dưới sự lãnh đạo của Lê Thành Phương, nghĩa quân Cần Vương đã làm chủ cả một vùng rộng lớn, gây cho thực dân Pháp nhiều thiệt hại. Nhờ tài năng quân sự và công tích đó, tháng 1/1886 Vua Hàm Nghi đã tấn phong Lê Thành Phương và trao ông quyền thống hạt, giải phóng toàn Nam Trung Bộ làm bàn đạp mở đường tiến đánh Nam Kỳ lục tỉnh…

Ngay từ khi nghĩa quân Cần Vương Phú Yên phất cao cờ khởi nghĩa, với địa thế xung yếu, đỉnh Xuân Đài - nơi tọa lạc chùa Đá Trắng đã trở thành một pháo đài lợi hại. Lê Thành Phương đã cho đặt ở đây hai khẩu thần công đại bác để canh phòng mặt biển, trực tiếp bảo vệ tổng hành dinh đóng cách đó hơn 10 cây số về hướng nam.

Chùa Đá Trắng còn là nơi gặp gỡ, hội họp giữa Thống soái Lê Thành Phương với các cấp chỉ huy. Tuy nhiên, giống như tất cả các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương, sau gần hai năm tồn tại, cuộc khởi nghĩa của Lê Thành Phương bị thực dân Pháp và tay sai đàn áp dã man. Trúng kế “điệu hổ ly sơn” của tên Việt gian Trần Bá Lộc, vị thủ lĩnh kiên cường Lê Thành Phương sa vào tay giặc. Trước khi đón nhận đường gươm từ tay đao phủ, ông đã ngẩng cao đầu đọc bài "Tuyệt mệnh thi" đầy khí phách:

Anh hùng mạc quản doanh do luận
Tổ quốc hà cô sỉ nhục ta
!

Mặt trời lên đúng 10 giờ ngày 20/2/1887.

Từ đó hai khẩu thần công ở chùa Đá Trắng cũng chịu chung số phận với chủ soái. Chúng nằm “trơ gan cùng tuế nguyệt”, làm bạn với tiếng chuông chùa, với vườn xoài, với đá trắng, với cây cỏ chim muông.

Ngó ra ngoài đỉnh Xuân Đài
Thấy hai ông súng nằm dài giữa truông

Câu ca như có một tiếng thở dài bi hận!

Phan Phú Yên
.
.