Chú Vĩnh Cát
Tôi thường gọi ông là chú. Không phải vì ông lớn hơn tôi hai giáp, mà là vì ông với cha tôi, có mối quan hệ "đặc biệt". Hồi cha tôi còn sống, đã đôi ba lần tôi đưa cha tôi khi đến chơi nhà ông ở phố Nguyễn Văn Ngọc phía sau khách sạn Daewoo, giáp với công viên Thủ Lệ; cũng có khi là đưa cha tôi đến chơi nhà nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Long, người anh trai lớn của ông, ở phố Nguyễn Khuyến, Hà Nội.
Tôi đã làm bộ phim tài liệu có tựa đề "Thầy tôi thời kháng chiến" để nói về các thầy giáo thời kháng chiến 9 năm. Trong bộ phim tài liệu đó (đã phát trên sóng Truyền hình Hà Nội hồi năm 1998) có nhiều "gương mặt" nhà giáo kháng chiến, trong đó có hai anh em nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Long và nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Cát. Dĩ nhiên cũng có cha tôi.

Chú Vĩnh Cát và chú Vĩnh Long đều gọi cha tôi là anh, bởi cha tôi hơn tuổi hai chú ấy, và cũng bởi cha tôi đi làm "giáo học" từ "thời tây", nghĩa là cũng làm thầy trước hai chú. Quãng những năm 1951 - 1953, cha tôi với chú Vĩnh Long và Vĩnh Cát lại cùng là giáo viên, một lứa giáo viên được gọi là "giáo viên kháng chiến", khi các ông được cấp trên phân công đã đi vào vùng sát vùng địch hậu (Huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên) để mở lớp và dạy học.
Bởi lẽ đó mà lứa "giáo viên kháng chiến" cứ hễ có dịp là gặp nhau ở Hà Nội (nơi các ông sinh sống), những buổi gặp nhau đó tôi thường đưa cha tôi đến dự. Rất vui là, cứ gặp nhau là "các cụ" lại rổn rảng câu chuyện "dạy học trong vùng sát vùng địch hậu năm xưa của mình".
Nhạc sĩ Vĩnh Cát, theo như lời cha tôi cho hay, thì quãng giữa năm 1953 ông từ Khu học xá Trung ương của ta đặt bên Nam Ninh, Trung Quốc, về nước. Trước đó chàng trai trẻ Vĩnh Cát theo học Trường Sư phạm Trung ương đóng ở Tuyên Quang trên chiến khu Việt Bắc. Biết tin anh trai mình cùng các nhà giáo Hưng Yên đã vào vùng sát vùng địch hậu để mở những lớp học "kháng chiến", lại nhất là những lớp học kháng chiến ấy lại được mở ở ngay chính quê hương mình, thì chàng thanh niên 19 tuổi Nguyễn Vĩnh Cát xung phong vào sát vùng địch hậu để tham gia dạy học.
Cha tôi bảo: "Trong lứa giáo viên hồi đó thì chú Vĩnh Cát là người trẻ nhất nhưng cũng hăng hái lắm". Nhạc sĩ Vĩnh Cát tên đầy đủ là Nguyễn Vĩnh Cát, ông sinh năm 1934, tại xã Đào Dương, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên (nay là xã Phạm Ngũ Lão, tỉnh Hưng Yên. Ở đó có làng Phù Ủng, quê hương của Danh tướng nhà Trần Phạm Ngũ Lão). Nhưng từ nhỏ đã sinh sống ở Hà Nội. Cha là ông Nguyễn Văn Cảnh, từng làm Phó giám đốc Nha Thể thao Trung ương hồi sau Cách mạng tháng 8, và là một liệt sĩ hy sinh trong những ngày đầu cuộc kháng chiến chống Pháp (ngày 19 tháng 12 năm 1946).
Sau khi cha tôi mất, tôi thường được "mời" tham dự những hoạt động nghệ thuật của nhạc sĩ Vĩnh Cát. Đó là những lần tôi được ông nói về chuyện đời sống văn hóa văn nghệ Thủ đô (nơi ông làm Giám đốc Sở Văn hóa Hà Nội).
Trong những câu chuyện của mình người nhạc sĩ "Ngôi sao Hà Nội" luôn "đau đáu" về nội dung "Xây dựng văn hóa người Hà Nội thanh lịch". Có lẽ cũng chính niềm "đau đáu" này là nhạc sĩ Vĩnh Cát đang làm Phó giám đốc Nhạc viện Hà Nội được thành phố Hà Nội "mời" về làm Giám đốc Sở Văn hóa Hà Nội?
Thực ra nhạc sĩ Vĩnh Cát gắn bó với phố Hà Nội từ nhỏ, với văn học nghệ thuật của Thủ đô ông cũng gắn bó từ thời niên thiếu. Nhạc sĩ Vĩnh Cát có lần vui chuyện đã cho hay: "Chú từ nhỏ đã tham gia hoạt động văn nghệ thiếu nhi ngay sau khi nước Việt Nam mới ra đời".
Rời Thủ đô theo gia đình lên chiến khu, cậu bé Nguyễn Vĩnh Cát khi ấy chừng mười hai mười ba tuổi với đam mê văn nghệ của mình đã cùng người anh trai Nguyễn Vĩnh Long gia nhập Đoàn Thiếu nhi Nghệ thuật ở Việt Bắc do nhạc sĩ Lưu Hữu Phước làm Trưởng đoàn.
Nhạc sĩ Vĩnh Cát cho hay: "Tuy còn là thiếu nhi nhưng chú đã được nhạc sĩ Lưu Hữu Phước hướng dẫn sáng tác bài hát". Tôi vui hỏi lại: "Chú còn nhớ bài nào được chú sáng tác hồi đó không?". Nhạc sĩ Vĩnh Cát cười rất vui: "Nhớ chứ. Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy mà. Hồi đó chú đã sáng tác mấy bài như: "Việt Bắc", "Nhớ Bác Hồ", sáng tác bằng cảm hứng và tình yêu của tuổi thiếu nhi thôi".
Tôi đã nói thêm: "Chú có gen sáng tác ngay từ nhỏ". Ông nhạc sĩ tài hoa gật đầu cười vui vẻ rồi bước tới cây đàn piano đặt trang trọng trong phòng khách. Lúc đó người nhạc sĩ già bất chợt "thăng hoa", ông đưa tay lướt nhẹ trên phím đàn kiểu như dạo lấy mạch cảm hứng rồi thong thả nhấn từng phím đàn. Tôi lắng nghe và nhận ra giai điệu của ca khúc "Sa Pa thành phố trong sương" rất nổi tiếng của ông.
Nhớ quãng năm 1980, khi ấy tôi đang đóng quân trên chốt ngoài biên giới Quảng Ninh. Vào một đêm tối trời, mấy tay trinh sát cùng mấy chiến sĩ thông tin trong đài quan sát pháo binh do tôi chỉ huy, đã "mày mò" dò sóng bộ đàm rồi chẳng hiểu các cậu ấy làm thế nào mà dò được sóng Đài Tiếng nói Việt Nam đúng lúc Đài phát bài hát "Sa Pa thành phố trong sương".
Đang định "nhắc nhở" mấy cậu chiến sĩ "vi phạm quy định bảo mật thông tin" thì tôi nghe bên tai ngân lên câu hát "Anh chỉ nghe em hát, vang lên trong biển mây/ Anh chỉ nghe tiếng cười vang lên giữa rừng cây/ Mà người đâu chẳng thấy, mặt người thương chẳng thấy/ Ơi Sapa mù sương, ơi Sapa mù sương".

Lời hát "động đến trái tim" và nhất là khung cảnh mù sương trong bài hát đúng y như khung cảnh mù sương trên chốt vậy. Tôi im lặng chờ nghe hết bài hát rồi mới "lên tiếng nhắc nhở". Mà lạ quá, nhắc nhở anh em xong mà trong đầu tôi cứ ngân nga: "Ta cùng nhau ở trên đỉnh núi/ Đây vùng cao một vùng biên giới/ Ở nơi tiền phương cùng đứng chung chiến hào/ Gìn giữ biên cương chẳng để lơi chút nào". Lúc đó tôi đã nghĩ: Hay là người nhạc sĩ sáng tác bài hát này vừa lên chốt của mình và vừa viết xong bài hát "thật như thật" vậy?
Có lần tôi đã hỏi nhạc sĩ Vĩnh Cát về bài hát đó, ông bảo: "Đó là lần chú lên Sapa công tác. Lần ấy là đầu năm 1980, thời tiết Sa Pa đậm đặc sương. Quân Trung Quốc hồi tháng 2 năm 1979 đã tiến công và chiếm thị trấn này ba ngày. Chúng đã lợi dụng thời tiết khi đó rất mù sương để xâm nhập. Chính kiểu thời tiết mù sương đó là nguồn cảm hứng cho chú".
Nhạc sĩ Vĩnh Cát còn được "gọi" là "Lãng tử đất Hà thành". Tôi đem thắc mắc của mình để hỏi ông thì được ông cười rất vui. Thì ra cái gọi là "Lãng tử Hà thành" mà người đời gán cho ông không phải vì chuyện chơi bời phóng đãng của những công tử Hà thành xưa mà nó có ý nghĩa khác. Ý nghĩa đó là: "Tôi sẵn sàng bỏ tiền tỉ làm liveshow "Ngôi sao Hà Nội". Hay "Tôi chấp nhận mất một căn nhà nhỏ hoặc ôtô hạng sang để làm chương trình âm nhạc để đời. Âm nhạc cho tôi tất cả: cuộc sống, gia đình, đồng nghiệp… nên tôi cũng sống chết với âm nhạc". Ông nhạc sĩ U90 đã từng tâm sự như vậy.
Tâm sự ấy thì tôi tin, bởi chính tôi như tôi đã nói, đã mấy lần được "mời" dự chương trình ca nhạc của ông, lễ ra mắt sách của ông và cả lễ sinh nhật tuổi 80 của ông nữa. Chuyện này ông rất "phóng khoáng" nhưng không phải cái phóng khoáng "lãng tử Hà thành" chi tiền vào chốn xa xỉ mà ông "phóng khoáng" để "Làm nghệ thuật là phải đàng hoàng. Cũng phải đầy đủ", như ông đã nói.
Sự nghiệp âm nhạc và giảng dạy âm nhạc của nhạc sĩ, giáo sư Vĩnh Cát thật đáng nể. Sự nghiệp của ông đều bắt nguồn từ một "cái gốc". Đó là cái "gốc" làm thầy từ thời thanh niên sôi nổi và cái "gốc" sáng tác từ thuở thiếu thời. Và cái "gốc" được đào tạo cơ bản (Từ năm 1967 đến năm 1971, ông được nhà nước ta cử sang Liên Xô và theo học tại Nhạc viện Alma-Ata). Và tiếp theo là mấy chục năm làm thầy (cả khi ông đã rời Nhạc viện Hà Nội để về Hà Nội làm quản lý văn hóa)
Và một cái "gốc" vô cũng quan trọng, nếu không muốn nói đó là căn bản, đó là cái "gốc" tình yêu. Tình yêu với quê hương, với cuộc đời "Ở nơi ấy vườn cây uốn quanh ven bờ sông/ Ruộng mênh mông cánh đồng cò bay thẳng cánh/ Ở nơi ấy có người bạn tôi mến thương/ Mắt đen như hạt nhãn lồng" (Vườn nhãn quê hương). Lời ca như có lần được nghe ông tâm sự: "Yêu đời và yêu người là nguồn cảm hứng cho sáng tác của tôi".
Bên tai tôi lại vang lên: "Những vì sao lấp lánh/ Giữa bầu trời Hà Nội/ Những vì sao không biết nói/ Nhưng biết chờ biết đợi". (Ngôi sao Hà Nội).