Nữ thi sĩ giành Nobel Văn học 2020: Một vẻ đẹp đau đời khắc khổ

Thứ Sáu, 23/10/2020, 16:30
Viện Hàn lâm Thụy Điển vừa công bố chủ nhân mới của giải Nobel Văn học. Theo đó, giải thưởng năm nay được trao cho nhà thơ người Mỹ Louise Gluck "vì giọng thơ độc đáo không thể nhầm lẫn, với vẻ đẹp khắc khổ làm cho sự tồn tại cá nhân trở nên phổ quát".


Nhà thơ đương đại tài năng

Chủ nhân của giải Nobel Văn học 2020 không hề có trong danh sách dự đoán của nhiều người. Nhưng với những ai yêu thơ ca đương đại Mỹ, chiến thắng của Louise Glück là một kết quả xứng đáng. Louise Glück sinh năm 1943 tại New York và hiện sống ở Cambridge, Massachusetts. 

Ngoài sáng tác thơ ca, bà còn là một giáo sư Anh ngữ giảng dạy tại Đại học Yale, New Haven, Connecticut. Louise Glück là phụ nữ Mỹ đầu tiên giành giải Nobel Văn học trong vòng 27 năm qua với "một giọng thơ khác biệt". 

Trước khi thắng giải Nobel, bà từng được nhận một số giải thưởng văn học uy tín như: Giải William Carlos Williams năm 1992; Giải Pulitzer cho thơ năm 1993; Giải Văn chương Lannan cho thơ năm 1999; Giải Bollingen năm 2001; và Giải Sách Quốc gia Mỹ cho thơ năm 2014. Bà được xem là một trong những nhà thơ đương đại tài năng nhất của Mỹ. 

Louise Glück đã xuất bản 12 tuyển tập thơ và một số tuyển tập phê bình thơ. Thơ của bà luôn thể hiện niềm khao khát sự sáng chói. Thời thơ ấu và cuộc sống gia đình, mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái luôn là chủ đề bà hướng tới cũng như sáng tác dựa trên các câu chuyện thần thoại Hy Lạp và La Mã.

Louise Gluck sinh năm 1943 ở New York, là tác giả của 12 tuyển tập thơ, một tiểu luận về thi ca. Ảnh: Pw.

Tác phẩm đầu tay của bà mang tên "Firstborn" được in năm 1968 đã nhanh chóng thu hút được độc giả. Điều này đã đưa bà trở thành một trong những nhà thơ lớn nhất của văn chương Mỹ đương đại. Chủ tịch Hội đồng giải Nobel Văn học, ông Anders Olsson cho rằng, trong thơ của Louise Glück, bản ngã lắng nghe những gì còn lại của giấc mơ và ảo tưởng. "Không ai khó khăn hơn bà trong việc đối mặt với những ảo tưởng của bản ngã". 

Bà cho biết: "Khi tôi còn trẻ, tôi đã sống theo cách mà tôi cho rằng các nhà văn sẽ sống như thế, trong đó bạn thoái thác thế giới, hiến dâng tất cả sức lực của mình cho việc sáng tạo nghệ thuật. Tôi đã ngồi bên một chiếc bàn làm việc và thật kinh khủng - càng ngồi đó mà không viết, tôi càng nghĩ rằng mình chưa từ bỏ thế giới đủ nhiều. Sau hai năm kể từ đó, tôi đi đến kết luận rằng mình sẽ không trở thành một nhà văn. Vì vậy, tôi đã nhận công việc giảng dạy ở Vermont, mặc dù cả cuộc đời cho tới khi đó, tôi đã nghĩ rằng các nhà thơ thực sự không dạy học. Nhưng tôi đã nhận công việc này, và phút tôi bắt đầu dạy học - phút tôi có nghĩa vụ trên đời - tôi lại bắt đầu viết".

Không thích ồn ào

Giải Nobel sẽ đánh dấu một sự thay đổi lớn đối với Louise Glück, bà chưa từng bao giờ ưa thích sự náo nhiệt của danh tiếng và sự tung hô của công chúng. Khi Glück được trao giải Nhà thơ Mỹ vào năm 2003, bà đã cho biết mình không quan tâm đến đông đảo công chúng mà chỉ thích số ít độc giả yêu thơ đam mê mãnh liệt. 

Năm 2015, Louise Glück được cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama trao Huân chương quốc gia về nghệ thuật và nhân văn. Bà cũng từng giành giải Pulitzer, giải Sách Quốc gia Mỹ. 

Về quan điểm sáng tác, nhà thơ từng nói trên Washingtonsquarereview: "Có một điều tôi muốn nói với những người viết, đó là đừng lặp lại chính mình".  Theo Viện Hàn lâm, bà nhanh chóng được ca ngợi như một trong những nhà thơ nổi bật của văn học đương đại Mỹ ngay từ tập thơ đầu tiên Firstborn (1968) - viết về thời thơ ấu, cuộc sống gia đình.

"The House on Marshland" - tập thơ thứ hai, ra đời năm 1975, là cú đáp trả của bà với giới nghiên cứu Mỹ, khi họ từng hoài nghi: "Chúng ta có thể mong đợi điều gì từ Louise Glück trong tương lai". Tác phẩm có chủ đề tương tự "Firstborn" nhưng gây ấn tượng bởi lối diễn đạt ẩn dụ tinh tế. Lần này, sự cô đơn đồng hành Louise Glück trong nhiều câu chữ. 

Trong bài "Gretel in Darkness", bà viết: "Nhiều đêm em quay sang để anh ôm lấy em/ nhưng anh đâu còn ở đây nữa". Louise Glück nói nhiều về giấc mơ, qua đó khắc họa cảm giác cô độc, mông lung. Bài "Brennende Liebe" có câu: "Đêm qua/ Tôi mơ thấy anh không trở về". 

Nữ quyền được Louise Glück đưa vào nhiều tác phẩm, điển hình là bài "Mock Orange". Bà tuyên bố ghét quan hệ tình dục, ví von chuyện sex với loài hoa mock orange - giống hoa dại có hương thơm nhẹ, ra quả giống cam nhưng không ăn được. Với nhà thơ, quan hệ tình dục không giải quyết được bất cứ điều gì mà chỉ tạo ra ảo tưởng về sự gắn kết, giống như mùi hương hững hờ của loài cam giả. 

Thông qua các tích truyện thần thoại, bà cũng thể hiện góc nhìn bênh vực phái đẹp. Bà kể bi kịch của nữ hoàng Dido - người bị anh hùng Aeneas phản bội, Persephone - con gái của thần Zeus và nữ thần nông nghiệp Demeter bị thần địa ngục Hades bắt cóc về làm vợ, hay Eurydice - vợ của nhạc công Orpheus, người đã cố gắng đưa cô về dương gian từ địa ngục nhưng không thành. Những kẻ bị trừng phạt, ruồng bỏ hay phản bội trở thành cảm hứng xuyên suốt trong tác phẩm, biểu đạt tiếng nói bênh vực phụ nữ và tượng trưng cho nỗi đau.

Nỗi đau đời

Những nỗi đau của nhân loại là chủ đề chính trong tác phẩm Louise Glück, xuất phát từ chính cuộc đời nhiều biến cố của bà. Glück mắc chứng biếng ăn sinh lý từ khi học phổ thông, từng trải qua hai cuộc hôn nhân đổ vỡ và một lần mất hết nhà cửa, tài sản vì hỏa hoạn.

Tác phẩm “The Wild Iris” cũng từng thắng giải Pulitzer.

Từ những trải nghiệm cá nhân, nhà thơ nhìn trực diện vào nỗi đau, diễn đạt nó một cách "thẳng thắn, không khoan nhượng", theo Anders Olsson - Chủ tịch Ủy ban Nobel. 

Bà viết về nỗi tuyệt vọng trong bài "Hoa xuyên tuyết" (thuộc tuyển tập "The Wild Iris", 1992 - từng thắng giải Pulitzer): "Tôi từng là gì, tôi đã sống ra sao anh có biết? Khi anh hiểu nỗi tuyệt vọng là thế nào. Hẳn mùa đông sẽ có ý nghĩa với anh''. 

Tuyệt vọng không phải là kết thúc mà để hướng tới hy vọng, hồi sinh. Ý niệm đó được bà diễn tả trong một nỗi khổ khác: "Tôi đã không mong sống sót/ Khi đất lèn chặt lên tôi/ Không mong thêm lần tỉnh dậy/ Nghe đất ẩm quấn quanh người/ Thế rồi khi mùa xuân đến/ Trong tia sáng lạnh đầu tiên/Thấy mình cựa lật hồi sinh…". 

Bà nói, nhiều tác giả ở tuổi trung niên sợ hãi khi viết về cái chết nhưng bà tìm thấy niềm hạnh phúc kỳ lạ khi nghĩ về nó. Cái chết của người cha trở thành cảm hứng để Glück sáng tác tập thơ "Ararat" (1990). Nhà phê bình Dwight Garner gọi tác phẩm là "cuốn sách tàn bạo, đau khổ nhất của thơ ca Mỹ được xuất bản trong 25 năm qua". 

Trong tác phẩm này, nỗi đau khi bố mẹ qua đời sớm, sự ganh đua giữa các chị em gái của bà, việc mâu thuẫn với các con được bà diễn đạt khéo léo, nhận đồng cảm từ độc giả.

Làm tiêu tan những ý niệm lãng mạn

Sự kiện khủng bố ngày 11/9/2001 thôi thúc bà viết tập thơ "October". Trong đó, bà dựa trên thần thoại Hy Lạp để nói về những vết thương. Nhà văn Harper Lee nhận xét, cuốn sách làm tiêu tan những ý niệm lãng mạn về mùa thu nhưng khiến độc giả phải bật khóc khi nhìn trực diện vào nỗi thống khổ của thế giới. Hình ảnh người con chôn cất cha trong chiều tháng 10, những gốc bí ngô héo úa gợi liên tưởng về sự tàn lụi.

Thế nhưng sau tất cả, bà vẫn nhen nhóm hy vọng về những điều tốt đẹp: "Anh sẽ không được tha thứ, nhưng những gì anh yêu rồi sẽ được thứ tha". Thần thoại Hy Lạp là nguồn cảm hứng lớn trong thi ca của Louise Glück. Bà không ngợi ca các vị thần quyền năng như Zeus hay Poseidon, mà hướng đến bi kịch của những anh hùng hoặc những phụ nữ trong các tích truyện. 

"The Triumph of Achilles" (Khúc khải hoàn của Achilles, 1985) có nhịp điệu thơ chậm rãi, với cách ngắt nghỉ ngẫu hứng. Bà chọn Achilles - chiến binh vĩ đại nhất Hy Lạp - để ẩn dụ về điểm yếu của con người. Achilles có cơ thể bất tử, ngoại trừ phần gót chân. Chàng chết trong cuộc chiến thành Troia bởi một vị thần đã nhìn ra điểm yếu của chàng.  "Trong lều, Achilles đau đớn đến tột cùng và các vị thần nhìn thấy anh ta là một kẻ đã chết, một nạn nhân".

Đông Nguyễn - H.Thu
.
.