Ngày và đêm trong ngôi nhà có hai liệt sĩ
Đêm ấy, thiếp đi trong nỗi lo canh cánh cho hai đứa con, bà Ngần gặp ác mộng. Giờ phút hy sinh của cha chồng và chồng tái hiện liên hồi. Rồi, khuôn mặt hai người loang loáng chuyển sang khuôn mặt của bà với mẹ chồng, rồi lại sang thằng Đức, thằng Đăng. Lúc nào cũng là muôn ánh mắt đỏ thù địch bủa vây, họng súng quây từ bốn phía. Càng muốn thoát ra càng bị trì néo sâu hơn. Những họng súng sẵn sàng nhả đạn bất cứ lúc nào không báo trước.
Đêm nay mưa quá, mưa quất ràn rạt vào cửa kính, bà Ngần nằm mãi mà vẫn thao thức chẳng ngủ được. Chẳng phải vì mưa, nếu có một trong hai thằng con trai ở nhà thì có mưa thế chứ mưa nữa với bà cũng chẳng là gì. Đằng này thằng Đức quyết theo gương bố, gương ông nội thi đỗ Học viện An ninh nhân dân, làm cảnh sát cơ động biền biệt miền vùng rừng núi Tây Bắc lam sơn chướng khí, năm ghé qua nhà được đôi lần.
Còn thằng Đăng tưởng khác anh, học ngành Kỹ thuật hình sự của Học viện Cảnh sát nhân dân, ra trường tuy cũng làm Công an nhưng có nhiều thời gian rảnh hơn cho gia đình. Dù trước đó bà cũng hướng nó học ngành khác đi, như bác sĩ, giáo viên, hay kĩ sư điện chẳng hạn. Có lúc căng thẳng, bà bắt nó nghỉ ôn thi, mong con thi trượt, trần đời này có người mẹ nào thế. Nhưng rồi thấy quyết tâm của con, bà vẫn dẫn con lên huyện khám sức khỏe, hướng dẫn viết hồ sơ lý lịch để nộp.
Ngày con thi, thâm tâm bà vẫn muốn con trượt, học gì thì học cứ làm thằng Đăng bé bỏng ở trong tầm mắt bà là được. Nhưng rồi con đỗ, bà cứ tin, đinh ninh nó học ngành kia thì chẳng chuyển theo cảnh sát cơ động được. Song, đánh đùng cái tốt nghiệp được hai tháng nó báo mình sẽ chuyển vào Trung đoàn Cảnh sát cơ động Trung Bộ đóng quân ở thành phố Đà Nẵng. Bà thở dài, làm mâm cúng bố mẹ chồng, cúng chồng, mong cho nó đi làm nhiệm vụ chân cứng đá mềm.
Thằng Đăng cũng giống anh, năm đôi ba bận tạt ngang nhân dịp đi công tác, ăn với mẹ được bữa cơm đã là hiếm, không thì nhanh nhanh chóng chóng thắp hương cho bố, đưa cho mẹ ít quà, chút tiền tiêu vặt rồi đi ngay. Nhiều lần bà nói dỗi, "thôi, các anh về thế lần sau đừng về nữa", nghe xong thế nào hai thằng cũng ôm lấy mẹ bảo chắc chắn sau này lấy vợ sẽ cho vợ con về ở với bà, khéo lúc ấy quấy bà chẳng đuổi tống đuổi táng.
Ừ, nhưng rồi mãi cũng chẳng thấy hai thằng rục rịch gì chuyện yêu đương cưới xin, cũng ngoài ba mươi cả rồi chứ ít gì. Mà nếu có lấy về lại cũng vừa thương vừa sợ. Thương là thương cảnh còm cõi mòn mỏi vì chồng quanh năm vắng nhà, lễ Tết nhà người ta sum vầy thì người nhà mình phải trực, về phép cũng chỉ đôi tuần, về tranh thủ nhỏ giọt chẳng bù đủ nỗi nhớ cồn cào không bút mực nào tả hết. Sợ là sợ hai chữ thủy chung, sợ rồi sinh con đẻ cái ra mà bố mẹ dứt lòng chia tay mỗi người một phương thì khổ đứa bé. Người trẻ bây giờ có nghĩ như thế hệ bà nữa đâu. Bà cũng đợi chồng biền biệt bao năm, những lần ông Hào về với bà cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Cái đêm ông Hào hy sinh ở vùng biên giáp nước bạn Lào khi phối hợp cùng cảnh sát hình sự trấn áp một toán cướp vũ trang, bắt giữ con tin cũng vào một ngày mưa gió thế này. Ông hy sinh khi lấy thân người chắn cho cháu bé người dân tộc Tày khỏi viên đạn của kẻ thủ ác nấp trong ngách hang.
Năm ấy nhà bà Ngần vẫn còn là ngôi nhà cấp bốn lợp ngói chứ chưa được xây khang trang hai tầng như giờ. Ở thị trấn đêm đó cũng mưa, lộp bộp, lộp bộp, gió cuộn thốc đẩy toang cửa nhà. Bà giật thót tỉnh dậy, mẹ chồng nằm cạnh nhổm người dậy định ra cài lại. Bà vội ngăn "mẹ để con" rồi vén màn bước ra.
Nước mưa hất lạnh toát, bà thoáng rùng mình, gai ốc nổi dần dần. Chớp nhoang nhoáng, sét xẹt xuống đánh nghiêng về phía núi, trong ánh sáng trắng nhòa của sét, bà như nhìn thấy ông Hào đứng ở cổng chứ không vào nhà. Vội vàng, bà gọi mẹ chồng, "mẹ ơi nhà con về". Mẹ chồng nghe thế vội vàng nhổm dậy cuộn chăn màn, buộc tóc, ấn công tắc cho bóng đèn sợi đốt ở giữa nhà sáng lên.
Hai người phụ nữ cùng chờ, chờ mãi, nhưng chẳng thấy người đàn ông nào bước vào trong nhà cả. Từ cổng vào đến sân chỉ hơn chục mét, cổng cũng chỉ quấn xích chứ chẳng khóa thế sao người đi lâu thế.
Không đợi được, bà Ngần cầm nón lao ra cổng. Mưa vẫn kiên trì quất xuống từng đợt nước, rào rạt, rào rạt. Đêm vẫn sâu hun hút, mới chưa đến bốn giờ sáng, cánh thợ lò đi làm ca ba sau khi tắm rửa ăn uống phải sáu giờ hơn mời về, cánh thợ ca một phải năm giờ hơn mới bắt đầu đi vào mỏ. Tầm giờ này nếu có chỉ là những người đi lấy cá sớm ở bên mạn Thủy Nguyên về đổ buôn ở chợ Mạo Khê. Nhưng, họ thường đi nhanh ra chợ hoặc dừng ở mấy quán ăn mở sớm chứ dừng ở cổng nhà bà làm gì.
"Mẹ Ngần nó làm gì ngoài cổng lâu thế? Thằng Hào nó có về không?".
Bà Ngần nghe mẹ chồng gọi vội vã đi vào. Bà nửa tin nửa ngờ vào mắt mình. Rõ ràng, trong ánh sáng ít ỏi của tia sét mang lại, bà đã thấy chồng thật. Ông nhìn bà cười, ừ, nhưng sao nụ cười ấy nó buồn thế.
Khi bà vào đến trong nhà thì mẹ chồng đã loẹt xoẹt từ trong buồng hai đứa cháu nội bước ra, bảo xem bọn nó đi ngủ có đóng cửa buồng không, quạt bật số to quá lại ho. Xong, bà vào bàn thờ, nhờ bà Ngần thay nước cho bà thắp hương. Khói hương dần tỏa trong căn nhà nhỏ. Hai người phụ nữ trân trân nhìn nhau nhưng tâm trí để tận đâu...
*
Mưa phía ngoài vẫn trút chưa biết đến bao giờ mới tạnh...
Bà Ngần cứ trằn trọc, nằm xoay trái xoay phải mãi. Cuối cùng, bà trở dậy sang phòng thờ thắp hương. Trên bàn thờ bố mẹ chồng, chồng nhìn bà qua di ảnh đen trắng như thầm động viên bà cố gắng lên. Làm vợ, làm mẹ người lính cảnh sát cơ động là phải biết chấp nhận xa chồng, xa cả con dứt ruột đẻ ra; chấp nhận đón tin dữ bất cứ lúc nào, ngay trong thời đất nước bình yên; chấp nhận thiệt thòi hơn những người xung quanh, không so bì, tính toán; nước mắt lúc nào cũng ngầm chảy ngược vào trong.
Thắp hương xong, bà Ngần xuống nhà ngồi nơi bàn uống nước dõi ra khoảng sân xi măng trước nhà. Nơi đó có hai cây sấu, một cây khế, một cây hồng xiêm, một cây mít Thái hai anh em Đăng, Đức vừa trồng đợt nghỉ phép năm ngoái. Hai đứa nó dặn đi dặn lại mẹ ở nhà dù bận thế nào cũng phải nhớ tưới nước cho con đấy. Để cây lớn, sau này hai đứa lấy vợ có con, các cháu có bóng mát chơi đùa, lại có quả ăn.
Thực ra, chúng nó chẳng dặn bà cũng tưới, lúc cây mới trồng nắng quá bà còn lật đật nhặt nhạnh cây que làm rào, lấy tấm chiếu rách che cho cây. Ngày bão lùa vào thị trấn bà đóng cọc buộc cho cây vì sợ gió quật gãy.
Chưa hết, bà còn mày mò nhờ cái Na học lớp bốn hàng xóm sang bắt hộ cái gì mà oai phai oai ta (wifi) nhà nó sang điện thoại bà. Cái điện thoại cảm ứng thay cái cục gạch số to như gà mái, mỗi lần ấn số là lập tức phát ra tiếng người nói một, hai... đến rợn. Bà mày mò mãi toàn ấn nhầm cái nọ xọ cái kia, định gọi người A lại nhầm sang người B, người C, đến phiền.
Thời gian đầu bà nhủ chẳng bằng dùng cái điện thoại cục gạch cũ còn hơn. Nhưng, từ khi bà biết điện thoại thông minh gọi có thể nhìn hai thằng con cả hình lẫn tiếng, thấy chúng béo hay gầy, thấy tiếng chào của đồng đội chúng nữa, thì bà thấy nó hơn hẳn cái cũ.
Dù mỗi lần gọi thật phiền, khi không có mạng, khi đầu bên kia không liên lạc được, khi chúng nó gọi về bảo chuyển sang Zalo video đi thì bà chẳng biết Zalo video là cái gì, định sang nhờ cái Na thì nó lại đi học mất, lại phải hẹn con giờ khác dù biết giờ ấy con đi tuần, vào ca trực, có việc đột xuất phải làm nhiệm vụ thì sao mà gọi được.
Trở lại việc chăm cây hai thằng con trồng, bà nhờ cái Na bắt "oai phai", vào cái gì mà "iu tu be tu bé" gì đấy (YouTube) mở cho bà xem cách người ta chăm mít, chăm hồng xiêm, chăm khế chóng lớn, nhanh ra quả. Mà người trong cái "iu tu be" ấy nói nhiều quá, bà nghe mãi, từ lúc chập tối đến khi hết pin mà vẫn nói. Rốt lại bà vẫn chẳng hiểu việc chăm cây bằng phân bón, rồi trừ sâu bệnh, cắt lá tỉa cành cụ thể là thế nào. Quanh đi quẩn lại bà vẫn dùng cách thủ công đấy là nước vo gạo tưới đều hằng ngày, thi thoảng tưới thêm đạm với lân pha loãng không đặc quá cháy lá chết cây.
Cũng phải nói lần trồng cây đó là lần đầu tiên hai đứa bố trí xin được nghỉ phép năm trùng dịp với nhau. Và, cũng phải rất lâu rồi trong nhà mới nhiều tiếng cười đùa đến thế. Lịch nghỉ hai tuần được lên ngay rõ ràng từ ngày về, ngày nào làm việc gì, ăn món gì. Cái sân kia cũng là hai đứa đánh trần ra gọi cát về, láng mịn rồi mua xi măng về nhào vữa tự đổ. Bà có ý lát gạch Bát Tràng nữa cho đẹp, nhưng thằng Đức gạt đi ngay, bảo mẹ già rồi gạch ấy mưa xuống là trơn trượt, dễ ngã lắm.
Láng xi măng xong, hai thằng còn tỉ mỉ căng dây kẻ những đường vân dọc ngang cho đỡ trơn. Ở góc sân chúng nó còn nghịch ngợm ghi: Nhóm thi công gồm Đặng Minh Đức, Đặng Minh Đăng; chủ thầu, bà: Nguyễn Thị Ngần; công trình hoàn thành ngày 8 tháng 7 năm...; sau rồi điểm chỉ bằng cả hai bàn tay ấn xuống khi vữa chưa khô, coi như cắt băng khánh thành công trình cấp gia đình; sáu bàn tay đặt cạnh nhau, hai tay bà nhỏ thó ở giữa, hai bên là bàn tay to bè hai con. Nhiều khi bà ra sân tưới cây cứ đứng mãi chỗ dấu vết bàn tay mấy mẹ con rồi cười. Bà chợt hiểu mình già quá rồi, bởi người già mới thường xuyên ăn món ăn kí ức để sống.
Mẹ chồng bà lúc còn sống cũng chỉ ăn thường xuyên một món đấy là kí ức. Kí ức về bố chồng bà, Đặng Minh Sơn, hy sinh cuối năm 1978 tại biên giới nước bạn Campuchia khi truy quét một toán tàn quân Fulro. Trở lại cái đêm bà thấy ông Hào về, mãi đến gần sáng mẹ chồng mới kể cho bà nghe ngày bố chồng hy sinh cũng thấy ông về, nhưng không phải đêm mà là giữa trưa nắng, lúc đang đút cơm cho con ăn. Ông cũng đứng ở cổng, gọi thế nào cũng chẳng vào nhà, chỉ vẫy vẫy tay chào rồi đi. Lúc bế con chạy ra chẳng thấy chồng đâu. Hơi lạnh còn váng vất, hai tuần sau thì có giấy báo tử chuyển về thị trấn.
Kể là kể thế nhưng vẫn dặn đi dặn lại con dâu chắc là do quáng nắng nhìn nhầm thôi, trên đời chẳng có sự trùng hợp thế đâu, do bà nhớ ông quá mà sinh ra ảo giác. Bà Ngần nghe mẹ chồng nói thế cũng nửa tin nửa ngờ, cho đến hơn tuần sau khi nhận tin thì bốn mẹ con bà cháu ôm nhau khóc.
Bà vừa ôm mẹ chồng vừa trách sao ông Hào không vào nhà nhìn mặt con rồi hẵng đi. "Ừ, ừ, nín đi, mẹ đẻ ra nó, mẹ thay mặt nó xin lỗi con. Dù thế nào con cũng phải mạnh mẽ lên, nhìn vào thằng Đức, thằng Đăng mà sống, con ạ, như xưa mẹ nhìn vào thằng Hào...". Mẹ chồng nói đi nói lại câu ấy, rồi đứng ra lo hết mọi việc tiếp đón ma chay.
Ba năm sau, khi hết tang ông Hào, mẹ chồng lại thay mặt con trai xin lỗi bà Ngần. Bảo tuổi con gái có thì, con giờ không còn trẻ nhưng cũng chưa già, nếu tìm được bến đỗ nào thì cứ tìm, hai thằng chó con cứ để mẹ nuôi. Bà Ngần nghe, khóc, bà hiểu mẹ chồng không muốn mình lặp lại cuộc đời bà. Muốn bà Ngần đi tìm một chốn mới, để sau này già cả còn có chỗ nương tựa, con nuôi cha không bà nuôi ông. Nhưng, thằng Đức, thằng Đăng vẫn còn bấy bớt thế kia, bà nào đang tâm mà đi tìm hạnh phúc cho riêng mình.
Trên dải đất Việt này có bao nhiêu liệt sĩ là có ngần ấy người mẹ, người vợ, người chị còm cõi chờ con, chờ chồng, chờ em. Mẹ chồng bà cũng ở vậy nuôi chồng bà là ông Hào khôn lớn, khỏe mạnh, lên đường làm nhiệm vụ vì bình yên Tổ quốc, thì cớ gì bà không ở lại nuôi hai con khôn lớn cơ chứ. Bà còn hơn mẹ chồng là bà có hai đứa con trai, rồi đây sẽ có hai đứa con dâu, rồi các cháu nữa, cả đàn cả lũ.
Bà Ngần gạt nước mắt, ôm lấy mẹ chồng, bảo giờ con là con gái mẹ rồi, con sẽ ở vậy với mẹ nuôi các cháu khôn lớn lên người; đây là nhà con con sẽ ở đây với mẹ chẳng đi đâu cả; anh Hào là chồng con, con sẽ thờ cúng, con chỉ có duy nhất người chồng đấy thôi.
Cho đến lúc mẹ chồng ốm mất cũng một tay bà nâng giấc, chăm sóc. Trước lúc mất, mẹ chồng bà bảo thấy chồng và con trai về đón, cả hai bố con quân phục sáng ngời. Bữa ấy bà giả khỏe, tự ngồi dậy được, đòi tắm nước lá thơm, ăn cơm canh cua với cà pháo, ăn xong mở tủ lấy ra bộ quần áo nâu chưa mặc, đôi dép nhựa trắng để ở đuôi giường rồi nằm xuống. Đến lúc bà Ngần dọn dẹp dưới bếp lên đã thấy mẹ chồng đi rồi.
*
Hết nghĩ vẩn vơ đến hai thằng con, về mẹ chồng, bà lại nghĩ về chồng, ông Hào. Năm thằng Đăng sắp sinh, ông Hào cũng về phép, khi đó trời cũng mưa, mà mưa to hơn thế này nhiều, mưa kéo dài cả tuần, cá trong hồ bỏ hoang, nơi người Pháp xưa bắt phu ta đào đất đóng gạch xây công xưởng và nhà cho chủ mỏ, theo nước tràn túa ra khắp xóm, bọn trẻ con hò nhau mang rổ đi ụp cá về ăn. Thằng Đức vì mẹ sắp đẻ, bà nội bắt phải ở nhà làm chân sai vặt, nếu cần phụ bà đưa mẹ lên Viện Mỏ cách nhà hơn cây số. Nó vâng vâng dạ dạ, nhưng mắt trước mắt sau đã cầm rổ sề trốn đi ngay.
Ông Hào về đến đầu xóm thấy con ụp cá không về ngay mà gửi ba lô, mấy hộp sữa, cân thịt, túm cá khô ở nhà bà Khá bán tạp hóa, cởi quân phục, đánh trần bắt cá cùng con. Nhưng, ông không theo bọn trẻ con đi lùa cá ở trên đường cái, trong các bụi rậm, trong sân nhà. Ông dẫn thằng Đức ra mương nông, dài hơn chục mét sau trạm gác chắn đường sắt. Ông dặn nó đặt rổ sề một đầu, một đầu ông bắt đầu mò. Ông đoán những con cá to đi đợt đầu, nước lớn sẽ vượt qua đường sắt nằm đấy, cỏ um tùm, lại nằm khuất sau nhà gác nên ít người để ý.
Buổi hôm đó chiến công của hai bố con đem về là đôi cá chép mỗi con nặng hơn hai cân, cùng mớ cá rô phi ta lẫn cá diếc kho khô với chay ăn cả tuần mới hết. Cá chép bố để nấu cháo cho mẹ tẩm bổ chờ sinh. Bố bảo nếu con gái sẽ đặt tên Hải, con trai đặt tên Đăng. Đợt bố mới vào ngành Công an, đi huấn luyện ở Móng Cái có ra ngọn hải đăng Vĩnh Thực, ngọn hải đăng đầu tiên của dải đất hình chữ S. Ngọn đèn dẫn lối cho người đi trên biển biết đường mà tìm về với gia đình, cố quốc. Cho người đi trên biển yên tâm rằng mình không cô độc, đất liền lúc nào cũng ở bên cạnh.
Nhưng rồi ông hết phép mà đứa con ương bướng vẫn chưa chịu chui ra. Trước khi lên đường, ông áp tai vào bụng bà, mắng yêu, "cún con của bố gan lì thế, đáng ra là phải phạt đấy nhé". Ông vừa đi hôm trước thì hôm sau bà đau bụng trở sinh, con trai, hai cân mốt, tên Đặng Minh Đăng.
*
Bà Ngần mơ màng giữa các hồi ức chồng con, gần sáng mới lại vào giường nằm chợp mắt được chút. Dậy, mưa đã tạnh, nắng xiên vàng nhà từ bao giờ. Bà ngồi thẳng người dậy, xếp bằng, xoa mặt, cổ, gáy cho nóng lên xong ra bóc lịch. Công việc này thành thói quen từ ngày bà lấy ông Hào. Mẹ chồng bà cũng có thói quen thế. Cứ sáng dậy việc đầu tiên là ra trước đốc lịch cầm xé đi ngày hôm qua. Qua được một ngày đồng nghĩa ngày phép của chồng, con, cháu đến gần hơn thêm một ngày.
Lúc ông Hào chưa hy sinh, đi biền biệt tháng ngày xếp nếp tháng ngày, mẹ chồng bà còn mách cho bà mẹo lấy áo lót cũ trong hòm quần áo của chồng cho vào chảo rang lên, để người đi xa thấy nóng lòng nóng ruột mà về. Khi bà hỏi lại mẹ đã làm thế bao giờ chưa thì bà lắc đầu, làm Công an mà lòng lúc nào cũng như có kiến cắn thì hoàn thành nhiệm vụ sao, chưa kể nguy hiểm cho mình lẫn đồng đội nữa. "Thế sao mẹ xui con làm?". "Ừ thì... nhìn mày mẹ lại thương lại xót, mẹ lại thấy hình ảnh của mẹ năm xưa. Mà thời gian qua nhanh thật đấy, nhoằng cái tóc xanh thành tóc bạc, mẹ thấy đầu mày cũng nhiều sợi bạc rồi đấy con. Mới ngày nào về làm dâu giờ đã sắp lên bà".
Những câu chuyện chẳng đầu chẳng cuối của bà Ngần với mẹ chồng có kể cả tháng chẳng hết. Hai mẹ con ở với nhau bao năm chẳng bao giờ có điều tiếng gì. Nếu thấy bà nóng, vùng vằng với chồng thì mẹ chồng nhỏ nhẹ động viên, hùa vào chê con trai mình đủ điều. Khi mẹ chồng khó ở thì bà Ngần săn sóc chu đáo hơn, từ miếng trầu đến bát cháo. Từ sau hôm ông Hào hy sinh tình cảm giữa hai mẹ con chẳng còn khoảng cách nữa.
Khi thằng Đức thi vào Công an, bà Ngần cũng đắn đo, hỏi mẹ chồng thì mẹ chồng động viên: "làm trai phải cho thỏa chí mình, ở nhà bám váy mẹ váy bà mãi sao được, cho nó đi đi con". Đến thằng Đăng thì mẹ chồng mất rồi..., nếu còn sống thì bà Ngần tin chắc mẹ chồng cũng chẳng phản đối quyết định theo nghiệp nhà của nó đâu.
Nay ngày 11 tháng 6, vậy còn hơn tháng nữa là đến ngày giỗ bố chồng, chẳng biết hai thằng cháu có về giỗ ông nội không, hay lại vắng như mọi năm. Vừa nghĩ, bà vừa lật bật mở phích run run rót ra lưng cốc nước nóng, thêm chút nước nguội cho ấm rồi mở tivi xem tin tức thời sự. Mấy năm nay mắt bà kém chẳng đọc được sách báo nữa, có chăng chỉ còn cái tivi bật lên cho có tiếng người đỡ quạnh quẽ.
Khác với mọi ngày phần đầu là tin trong nước, sang tin nước ngoài, thể thao, cuối cùng là thời tiết. Nay thời sự sáng tập trung đưa tin về vụ việc một nhóm người chưa xác định tấn công trụ sở Ủy ban nhân dân xã Ea Tiêu và Ea Ktur, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk làm chết một số cán bộ, Công an xã và người dân. Hiện, Bộ Công an đã chỉ đạo Công an tỉnh Đắk Lắk và các đơn vị nghiệp vụ triển khai vây bắt nhóm người trên. Diễn tiến vụ việc sẽ được cập nhập trong các bản tin tiếp theo.
Bà Ngần vừa nghe tin tức vừa ngầm lo sợ. Là vợ, là mẹ của cảnh sát cơ động, bà hiểu các con bà giờ đây đã sẵn sàng lên đường, có mặt ở điểm nóng kia để truy lùng, trấn áp các đối tượng nguy hiểm, giữ bình yên cho nhân dân. Nhất là thằng Đăng, ở Trung đoàn Cảnh sát cơ động Trung Bộ, khả năng lên Tây Nguyên là rất lớn. Giờ này bà rất muốn gọi nghe tiếng hai con, dặn dò chúng nó giữ gìn sức khỏe, ăn uống đầy đủ khi làm nhiệm vụ. Nhưng, suy đi tính lại, bà lại chẳng gọi nữa, chúng nó lớn rồi, vả lại, có hỏi chúng nó cũng chẳng nói mình có được lệnh điều đi hay không, bí mật quân sự mà.
Cả sáng ấy bà cứ đi ra đi vào chẳng yên, bản tin mười hai giờ trưa, rồi bảy giờ tối cũng chẳng có tin tức gì mới hơn. Quanh đi quẩn lại vẫn là lực lượng chức năng vào cuộc quyết tâm bắt các nghi phạm trong thời gian sớm nhất.
Đến tám giờ hơn thì thằng Đăng gọi về hỏi mẹ tình hình ở nhà thế nào, có uống thuốc khớp đều không, đêm có ngủ được, phải nấu cơm ăn đều chứ không được bỏ bữa. Bà Ngần nghe con nói, ừ cả, hỏi nó ở đơn vị thế nào, nó nói chung chung tất cả đều ổn rồi tắt máy. Nghe giọng nó bà lo càng thêm lo, lúc lâu sau thì thằng Đức gọi về, vẫn ngần ấy hỏi han, bà chỉ dặn nó có gì anh em thỉnh thoảng tâm sự với nhau, yêu ai thì yêu đi, lấy ai cũng lấy đi rồi có cháu đưa bà nội còn khỏe trông cho, chứ vài tuổi nữa yếu chân chậm mắt mờ tay run thì lo cho mình chẳng xong chứ bế ẵm gì, sang tháng là giỗ ông nội xem về được thì về, bận thì thôi.
Đêm ấy, thiếp đi trong nỗi lo canh cánh cho hai đứa con, bà Ngần gặp ác mộng. Giờ phút hy sinh của cha chồng và chồng tái hiện liên hồi. Rồi, khuôn mặt hai người loang loáng chuyển sang khuôn mặt của bà với mẹ chồng, rồi lại sang thằng Đức, thằng Đăng. Lúc nào cũng là muôn ánh mắt đỏ thù địch bủa vây, họng súng quây từ bốn phía. Càng muốn thoát ra càng bị trì néo sâu hơn. Những họng súng sẵn sàng nhả đạn bất cứ lúc nào không báo trước. Chẳng biết nhả đạn từ hướng nào để đề phòng. Cho đến lúc con gà trống nhà cái Na hàng xóm gáy báo chuyển canh, bà Ngần mới giật mình tỉnh dậy, mồ hôi toát ra đầm đìa.
*
Thời sự những ngày tiếp sau đó tập trung chủ yếu vào vụ việc xảy ra ở Đắk Lắk. Bắt được sáu, rồi mười sáu, hai sáu, bốn nhăm, bảy tư, bảy bảy, rồi tám tư nghi phạm. Liền một tháng sau đó bà Ngần ăn ngủ trong trạng thái phập phồng, người gầy rộc đi. Thằng Đức cứ cách ngày lại gọi điện cho bà. Còn thằng Đăng cuộc gọi gần nhất cũng cách nay nửa tháng, vẻn vẹn chỉ dặn bà giữ gìn sức khỏe, uống thuốc huyết áp đều rồi tắt máy. Trong thời gian ấy ngoài cập nhập bản tin bắt được bao nhiêu nghi phạm, bà còn để ý trong quá trình vây bắt các đối tượng, phía ta có ai bị thương không. Cho đến khi các bản tin thưa dần các tin ở Đắk Lắk bà Ngần mới phần nào thở phào.
Chập tối đó đột nhiên thằng Đăng gọi điện, giọng hồ hởi báo giỗ ông sẽ về, ở với u được hẳn ba ngày, sẽ có điều bất ngờ cho u. Bà Ngần nghe thở phào, rồi mày mò ấn số gọi điện cho thằng Đức hỏi xem có bố trí về tranh thủ được đôi ngày không, xem lịch rồi, giỗ ông vào cuối tuần đấy, thằng Đăng cũng về dịp này. Thằng Đức bảo sẽ cố, chứ cảnh sát cơ động mà, có nói trước được điều gì.
Lúc cúp máy, bà mới thấy hối, bà sợ làm phiền con, sợ chúng phân tâm. Giá mà chúng nó lập gia đình đi để bà đi theo bế cháu thì tốt biết mấy. Hoặc, không cho dâu lẫn cháu về đây ở với bà cho vui cửa vui nhà cũng được. Chứ đằng này càng giục càng hứa yên tâm mà rồi mất hút. Mà nếu chúng nó lấy vợ thật thì bà cũng lại thấy lo, nỗi lo từ con trai chuyển sang con dâu, rồi sang cháu. Ôi, mà bà lẩn thẩn quá rồi, cứ nghĩ vẩn vơ cái không đâu, cái đã diễn ra đâu mà cứ đặt giả thiết này giả thiết kia, tình huống này tình huống nọ.
Và, đêm ấy thị trấn cũng có mưa lớn.
Bà Ngần ngủ mơ, trong mơ bà thấy hai đứa con trai đều dẫn người yêu về ra mắt...
