Lời nguyền huyết long trà
Người già vẫn thì thào vào tai đám trẻ, bảo rằng, trà ở Giàng Cao là giống Huyết long trà Shan tuyết, mọc lưng núi Pà Xáy hơn ngàn rưỡi thước, sống bám sương bạc trăm mùa. Búp non đầu trăng đỏ hồng như giọt máu Giàng, ai hái được mà đem cúng dâng Giàng thì mùa màng không héo, trâu không chết rét, vía người không thất lạc về núi, người ốm hiểm nghèo cũng nhờ lá trà mà lành bệnh, sống thêm nhiều mùa trăng nữa.
1. Mỗi sáng, đỉnh Pà Xáy lại thổi sương như mở nắp nồi hầm ngàn năm, để khói núi trườn qua những tán trà Shan tuyết rì rào, vướng vào từng nếp vách gỗ, từng mái gianh của người Mông bản Giàng Cao.
Ở lưng chừng đỉnh gió, cây trà tổ cùng con, cháu, chắt vẫn đứng lặng như vết sẹo mà đất trời để lại, cắm rễ chằng chịt vào mạch đá vôi bạc màu, trườn sâu xuống bụng núi, nơi mà người ta tin có một mỏ quặng quý đang nằm im như nắm xương tiên tổ.
Người già vẫn thì thào vào tai đám trẻ, bảo rằng, trà ở Giàng Cao là giống Huyết long trà Shan tuyết, mọc lưng núi Pà Xáy hơn ngàn rưỡi thước, sống bám sương bạc trăm mùa. Búp non đầu trăng đỏ hồng như giọt máu Giàng, ai hái được mà đem cúng dâng Giàng thì mùa màng không héo, trâu không chết rét, vía người không thất lạc về núi, người ốm hiểm nghèo cũng nhờ lá trà mà lành bệnh, sống thêm nhiều mùa trăng nữa.
Vì quý nên tranh. Chẳng biết từ bao giờ, chính từ những gốc trà ấy mà máu người từng chảy không dứt vì ai cũng muốn giữ lá, giữ vía, giữ quặng trắng nằm dưới bụng đá lạnh. Lời xưa truyền lại: “Ai chạm dao chặt rễ trà tổ, vía sẽ bị Giàng buộc trên đỉnh Pà Xáy, đêm gió hú mang vía bay khỏi bản, xác nằm cứng như đá, mắt trợn ngược, xương hóa gốc, máu chảy xuống nuôi lá. Máu chảy đủ ba đời, rễ trà giữ xương phản, lá trà giữ lời thề. Quặng trắng dưới bụng đá chỉ bật ra khi lá úa, vía tắt, gốc trà không còn thở”.
Oán thù cứ chất chồng, dây dưa như rễ già ôm đá. Quanh mỗi gốc trà từng nhuốm máu kẻ giữ ranh, chôn xương người làm phản.
*
A Phông, con út cụ Súa, già bản Giàng Cao, lớn lên bằng mùi khói bếp đêm canh gốc trà tổ. Hồi còn bé, Phông hay ngủ gục trên lưng ông nội, đêm đêm cụ Súa vẫn cõng cháu băng qua triền rừng, nằm co bên bờ suối Lùng Cáng, tai rình bước chân Pang Cáng leo lên hái trộm búp trăng.
Mỗi mùa hái lộc, trai bản Giàng Cao đốt lửa ngay gốc trà tổ, dao rựa treo sẵn trên cành khô, lưỡi hắt ánh than đỏ như mắt con sói đá chực sủa vào đêm lạnh. Mấy đứa con trai tầm Phông hay ngồi bó gối, nghe tiếng cụ Súa rít thuốc, nhổ bã vào tro mà bảo:
- Ông cố mày bán nửa rừng trà này cho Tây, quặng trắng nằm dưới cũng bán. Dân bản lôi ra, vùi sống ngay gốc trà tổ. Rễ già ăn xương phản, lá vẫn xanh, núi còn giữ. Phản nữa, rễ lại ăn thêm xương, chẳng sợ no.
2. Mùa trăng Phông tròn mười bảy, vai đã cứng như vai ngựa thồ muối, giọng gọi đàn ngựa bạch lẩn trong gió quật đỉnh Pà Xáy. Đêm đầu tiên trốn cụ Súa, Phông buộc đèn pin, quấn dây thừng vào hông, trèo lên cành trà già mà hái búp lộc đầu. Nhưng, cành rêu ướt, gió quật ngang, gót chân trượt, thân Phông đập rễ, tay xước, máu nhỏ loang trên lớp địa y phủ gốc trà. Người già Giàng Cao mà biết, hẳn là mặt sẽ sầm lại như mây đổ sương đá:
- Máu chạm rễ tổ rồi, vía Giàng không cho ngủ yên đâu, Phông ơi!
Nhưng, trời Pà Xáy vốn lắm chuyện run rủi. Đêm ấy, Phông lồm cồm lết ra bờ suối Lùng Cáng, vết thương rỉ, mắt mở không nổi, cũng là cái đêm Sẻo Mẩy, con gái út nhà Vừ A Chông, cháu ruột thầy mo Lử, đi rừng hái lá ngải đắng về sắc cho con trâu mẹ vừa đẻ non xong mà mất vía. Mẩy mới mười bảy, tóc dài, búi vội trong chiếc khăn chàm, đôi tay nhỏ thoăn thoắt vạch lá rừng mà mắt cứ len lén ngó quanh, sợ con ma sương bám gót kéo vía lạc về đỉnh Pà Xáy.
Mẩy hay cười, nhưng đêm ấy đôi mắt đen hoang như mắt con hoẵng lạc rừng, ánh đèn pin run rẩy soi một vạt áo cũ quấn ngang eo. Cả bản Pang Cáng vẫn đồn Mẩy có đôi tay mát như lá ngải, trâu đau thì đắp lá Mẩy hái, người sốt thì đun ngải Mẩy mang về, vía nào yếu cũng mạnh lại.
Lần ấy, đèn pin quét một đường qua bụi cỏ dại, Mẩy khựng lại khi thấy Phông nằm sõng soài như một mảng rêu đá biết thở. Mẩy ngần ngừ, lùi một bước, sợ hồn ma, nhưng rồi cũng quỳ xuống. Tay run, tháo vạt áo buộc vết thương, rồi lót tấm chăn mẹ dúi theo trước khi đi. Mùi ngải đắng lẫn mùi bùn rừng, mùi máu loang trên rễ già. Phông mở mắt, chạm mắt Mẩy, thấy đỉnh Pà Xáy như tan sương.
3. Mối tình bén như lưỡi dao quắm cha ông giắt lưng. Pang Cáng vốn để lời nguyền: “Gái Pang Cáng không gả trai Giàng Cao. Máu đổ gốc trà, rễ mọc gai, núi gãy lưng”. Nhưng, Mẩy chỉ khúc khích, dúi đầu vào vai Phông:
- Lời nguyền là lời người chết. Người sống thương nhau thì đá cũng nở hoa.
Từ hôm ấy, sương đêm bám dấu chân Phông trước lán Mẩy. Có đêm, Mẩy gùi bánh ngô, giắt lá thuốc, vượt dốc rừng tìm Phông. Gió hú trên đỉnh Pà Thèn. Lửa bếp hun bên suối Lùng Cáng, mắt hai đứa sáng như lửa giấu dưới sương. Nhưng, rừng không giấu nổi bụng người. Một đêm, dao quắm rỉ cắm phập bậc cửa lán Phông. Lông gà quạ tẩm bùn ngải vắt ngang cột chuồng ngựa, máu chó phết lên bậc gỗ. Thầy mo Lử hun lửa, thở khói, khấn Giàng:
- Ai xô vía gốc trà, ma rừng dắt hồn nó đi.
4. Dưới chợ bản Giàng, Tráng Mố - trai Pang Cáng từng tha phương lặn lội dưới xuôi, bỗng mò về, lẩn trong đám đông bán lá thuốc, rỉ tai mấy trai Giàng Cao mới lớn:
- Dưới rừng trà Shan là mỏ bạc. Đào lên mà bán, tiền chảy vào nhà như suối Lùng Cáng.
Mấy trai Giàng Cao còn non bụng, nghe Mố thì thào như hơi gió rít mái chợ. Trong đám ấy, có gã anh họ Phông, từng giữ gốc trông rễ ngày cũ, mặt xăm vằn mũi tên, lầm lầm cầm cán dao rựa, cúi đầu lắng nghe.
Một đêm, đám ấy tụ nhau dưới gốc sa mộc già, Mố nhổ bã trầu, gã anh họ thì thầm:
- Gốc trà tổ máu ai cũng ăn. Cắt rễ, chôn đứa nào dám hé miệng, như ông cố tao từng bị vùi xương ngay dưới này.
Tin có bọn muốn phá chè, đào quặng đến tai già Sủi. Mới nghe phong thanh, cụ đã rướn vai gầm, giọng sặc mùi khói rừng như gấu động ổ, gầm xong hơi cụ còn váng như lời nguyền bám lấy gốc trà. Sáng sớm, cụ chống gậy lò dò ra giữa chợ, mắt đục, giọng khàn như gió Pà Xáy quật bờ suối Lùng Cáng:
- Gốc trà Shan này là máu Giàng, bạc trắng dưới bụng là xương rừng. Ai dám cắt rễ, Giàng moi vía nó ra mà nuốt, vía chạy cũng không kịp thoát.
Ba đêm sau, người ta mò được xác già Sủi nổi dưới khe suối Lùng Cáng, cổ tím bầm, dấu chân bùn còn hằn trên phiến rêu.
Mấy kẻ đứng nhìn xì xào: “Ma rừng bắt vía già rồi...”. Dân bản cúi đầu, gió rừng rít lưng gáy.
5. Sau khi xác già Sủi nổi dưới khe suối, Pang Cáng rùng mình, Giàng Cao cũng đêm đêm nghe chó sủa gió. Một tổ Công an xã được điều lên cắm bản. Lán của họ che tấm bạt dựng tạm trên lưng Pà Xáy. Mưa đêm dột xuống bếp tro, gió rừng luồn khe bạt, hun mùi khói cháy sém.
Ban ngày, Trung úy Long - trinh sát Công an xã cắm bản, áo còn mùi hồ sơ - cầm sổ tay, đi từng nếp nhà gỗ. Lúc thì ngồi bậc cửa nhà già bản, lúc quỳ bờ suối Lùng Cáng, gõ hỏi đứa nào theo đám Tráng Mố, ai cuối cùng nhìn thấy già Sủi chống gậy ra chợ.
Đêm về, gió Pà Xáy hú qua khe lán tạm, tấm bạt căng vội đã rách mép, mưa rừng vẫn dột lộp bộp xuống bếp tro còn ấm lửa. Trung úy Long co chân bó gối bên cụ Súa, tay kẹp điếu thuốc sém tro, hơi khói quẩn quanh sườn lán, ngấm vào vai áo đã ẩm mùi rừng. Cụ Súa rít một hơi khói, tay gạt tàn lên mép bếp, giọng thì thào như tiếng gió luồn qua rễ trà già: kể chuyện mốc đá Pháp cắm ranh, chuyện xưa người làng lôi ông cố Phông chôn sống dưới gốc trà tổ, để rễ già ăn xương phản, lá trà vẫn xanh ngút sương.
Phông ngồi nép bên, vai dính sương lạnh, mắt chớp lửa bếp tro như nuốt từng lời cụ Súa ném ra, tiếng tro tàn lép bép nghe như mạch máu gốc trà khẽ rỉ giữa đêm. Rời lán của tổ trinh sát, Phông không về nhà ngay mà lần theo lối mòn bờ khe đá, nơi già Sủi từng ngồi canh gốc trà tổ. Mưa đêm Pà Xáy chưa rửa kịp bùn. Phông soi đèn pin, thấy dấu chân bùn loang, bên gốc sa mộc già lộ ra mẩu dây gai cháy sém. Dưới khe đá còn cắm xéo vết dao quắm gãy cán, vệt gỉ dính rễ cỏ.
Phông chạm tay lên cán dao, rút sợi gai bỏ túi, quay lưng nghe tiếng gió hú ngang tai, như hơi cụ Sủi khấn Giàng từ dưới đất.
Xa xa, dưới bản Pang Cáng, cũng đêm ấy, đám cúng ma vừa tan, Sẻo Mẩy còn đang còng lưng bên bờ nước rửa cho hết mấy chồng bát đũa rờn mùi vía. Chỉ cách vài bước, ở mâm rượu cuối, đám trai bản đã lăn lóc bởi men rượu ngô. Tráng Mố, lưng khoác tấm chăn sờn, mắt đỏ hoe, cụng chén rồi dốc ngang cổ, tiếng cười khùng khục bật ra như tiếng gió rừng luồn vào bọng đá.
- Bọn Công an xã về bản điều tra, chẳng tốt lành gì đâu. Tao cần chúng mày đêm mai, châm cho lán chúng nó đốm lửa. Lán cháy, chúng nó cuốn xéo. Lán không còn, gốc trà nằm im. Rễ già cắt xong, quặng trắng moi lên chia nhau. Cả bọn đã say, nhao nhao hưởng ứng, Mố nghiêng mình, giọng sặc mùi hơi rượu sấm lại:
- Đứa nào dám hó hé, tao cho nó đi theo lão già Sủi. Vía nó khóc Giàng cũng không nghe.
Mẩy len bóng tối, nheo mắt nhìn qua đám trai, thấy một bóng người ngồi mép chiếu, tay xoa cán dao quắm gỉ, mặt lờ mờ chính là gã anh họ của Phông bên Giàng Cao - kẻ xưa nay hiếm khi vắt chân sang Pang Cáng, càng không dễ gì uống rượu chung mâm. Thấy gã cúi đầu gật gù bên Mố, lưng rung theo nhịp cười khan, Mẩy cắn môi, bàn tay dưới gùi run theo tiếng lá ngải cọ vào vạt áo.
*
Ba đêm trước, gió núi Pà Xáy cũng hú qua mái lán này, tấm bạt che sườn đồi dột mưa xuống bếp tro, khói bếp bện sương, dính vai áo Long. Long ngồi bó gối bên cụ Súa, mắt nhìn lửa mà giọng chầm chậm, trượt qua lưng Phông, vướng vai Mẩy.
- Em mang họ cụ Súa, máu ông cố nợ Giàng chưa gỡ. Gốc trà tổ từng uống máu tay em, giờ em đứng ngoài, Giàng cũng không cho. Em để ý đám trai, ai rỉ tai chuyện gì về cái chết của cụ Sủi, hay chặt chè đào quặng, em nghe sạch mang về đây cho anh.
Long ngước mắt, liếc Mẩy ngồi lặng bên gùi củi, tóc vương mùi ngải đắng:
- Còn em, Mẩy... Gái Pang Cáng không ai bấu hơi rừng giỏi bằng em. Chợ bản, bếp rượu, bọn đàn bà rỉ tai nhau, đứa nào lỡ miệng, em nhặt hơi về. Tình hình gì, mang về bếp tro này, nói trước khi gió núi biết.
Long dụi tàn thuốc, giọng đanh như lưỡi còng thép khua đá ướt:
- Gió bản thì biết trước anh, nhưng gió không có mắt, không có tai. Tai mắt của anh là các em.
*
Rạng sáng hôm sau, Mẩy chờ Phông ở bờ suối Lùng Cáng, tay vẫn ôm gùi củi khô. Phông dúi tay vào gùi, chìa đoạn dây gai còn dính bùn:
- Tao bám khe đá đêm qua. Vết chân còn mới. Dao quắm gãy, dây gai còn mùi khói. Già Sủi không trượt chân xuống khe, mà bị kéo ra chỗ rễ trà, chôn vía.
Mẩy thở khẽ, giọng nghẹn:
- Thằng Mố lộ mồm rồi. Đêm nay người của nó sẽ đốt lán Công an, đuổi họ đi để tiện phá chè, moi quặng. Thằng anh họ mày cũng ngồi mép chiếu, uống rượu ngô với chúng nó đấy.
Đôi trẻ bàn bạc rồi rón rén men theo bờ suối, luồn sương về lán Công an khi gió núi Pà Xáy còn ướt mái bạt rách. Trong bếp tro, Long ngồi bó gối, mắt vẫn mở, lửa than vừa kịp cháy đỏ. Phông đặt mẩu dây gai, Mẩy khép vạt áo, kể hết những điều nghe được đêm trước. Long suy nghĩ, bàn với mấy trinh sát rồi quay sang:
- Vậy là vía phản tự lòi mặt rồi. Chúng tự dẫn xác đến thì tốt quá rồi! Đêm nay, chúng ta sẽ phá án.
6. Đêm ấy, Pà Xáy thở khói sương, rừng im như nín hơi. Phông nấp lưng gốc sa mộc già, Mẩy ẩn sau mỏm đá, tay nắm chặt túm lá ngải để vía không lạc. Mố lò dò xuất hiện, lưng khom, mùi rượu trộn hơi tro, dao quắm giắt nghiêng sườn. Gã anh họ của Phông cúi đầu đi sau, mắt quét bếp lán sáng leo lét bên kia lưng đồi. Theo gót còn hai gã trai, dao quắm lăm lăm trong tay, bóng chập chờn như vía rừng. Mố liếc gã anh họ, giọng khàn, rít khe khẽ như đá lở:
- Cháy lán, vía Công an trôi. Rễ trà tổ nằm im. Tha hồ moi bạc, chia nhau cày quặng.
Chưa dứt câu, tiếng hô khô khốc bật ra trong gió. Long cùng tổ trinh sát lao từ hai sườn, bóng đèn pin quét loang loáng như dải chớp vắt lưng rừng. Còng thép bật lách cách, sượt qua sương, quật cả bọn dúi mặt xuống thảm lá khô. Dao quắm rơi, lưỡi mẻ khua cành sa mộc nghe lạnh gáy. Phông sải bước ra, tiếng giày nghiền đất ẩm, giọng bật như lưỡi dao xẻ ngang đá gốc trà:
- Già Sủi không tự lạc vía. Mày với nó... - mắt Phông xoáy thẳng gã anh họ - lôi cụ ra khe đá, chôn vía giữa bùn. Sợ cụ bóc mưu trộm quặng, chúng mày trám miệng cụ như trám rễ trà. Máu tao không rỉ theo, không chảy nữa cho quặng trắng nhà mày!
Mố trợn mắt, mồm há như đứt hơi rượu, gã anh họ khựng vai, rồi cùng phịch xuống gốc sa mộc. Cả bọn gục đầu, hơi thở tắc như vía cụ Sủi đêm bị lạc, giờ nghe rễ trà già rỉ sương mà rùng mình.
7. Khi màn sương cuối cùng tan trên đỉnh Nậm Cáng, cũng là lúc lần đầu tiên sau hàng trăm mùa rẫy, tiếng khèn Mông vang vọng cả thung lũng giữa hai bản Giàng Cao và Pang Cáng - không phải để gọi hồn người chết, mà để mời rượu cưới. Ngày A Phông cưới Sẻo Mẩy, trời đổ nắng như được gột sạch lời nguyền. Người già hai bản đội khăn trắng, chống gậy bước qua ranh giới từng chỉ có máu và oán hờn. Những cái bắt tay run run, những giọt nước mắt rơi không vì đau, mà vì lần đầu tiên họ thấy lòng nhẹ đi.
Dưới tán lá bạc sương, già làng Giàng A Súa và thầy mo Lầu Páo - người từng đứng hai bên chiến tuyến - cùng thắp nén nhang, cúng Giàng, khấn: “Hôm nay máu không chảy. Chè không nhuốm thù. Hai dòng họ không còn là hai. Nguyện tổ tiên chứng giám”.
8. Sau đêm cưới, gốc trà tổ được rào đá xanh, bia đá “Cội trà - Cội người” dựng bên rễ già ươm sương. Tin hai bản hóa thù thành anh em theo bước chân thương lái về tới phố. Một doanh nghiệp dưới xuôi vượt đèo Pà Xáy, cõng máy sấy, máy đóng bánh, dựng xưởng ngay chân đèo. Họ không chỉ mang máy, mà còn mang cả thầy kỹ thuật, ngồi bậc cửa nhà già bản, bày đám trai Giàng Cao, Pang Cáng cách cầm điều khiển drone thu hái búp trà Shan trên đỉnh tán. Đám gái bản thì học cách lên men trà, ép bánh, ủ túi giấy bạc in hình rồng uốn tán trà cổ.
Những đêm rừng Pà Xáy, ánh đèn drone sượt qua tán trà cổ như đốm lửa khèn Mông mới, treo lơ lửng bên đầu lá ướt sương, thay bàn tay trai bản từng trèo trụi cành già. Bọn trai bản từng đêm rình dao giữ ranh giới, nay bảo nhau học lái drone, ngửa mắt ngắm tán trà bạc đầu sóng. Bọn gái bản từng treo bùa yểm vía, nay biết cách ủ chè lên men, chứ không sao qua lửa để giữ nguyên tinh chất ngàn năm, biết khép búp non thành bánh, ép thành logo Rồng mà đưa trà núi lên bàn người phố, người chợ, người bên kia biên giới.
Còn cô gái từng bị dân bản rình rập, từng bị rắc bùa rải gạo khi dám yêu “kẻ thù”, giờ đứng giữa hội trường mái lá, giảng cho bà con cách phơi trà bằng ánh nắng mềm, cách bảo vệ dược chất chữa bệnh nan y từ những búp trà mới hái. Người ta nghe cô nói mà không chớp mắt, vì trong từng lời, họ nghe thấy tương lai của chính mình.
Trong khi ấy, A Phông thì cùng nhóm trai bản leo đỉnh núi, dựng lán, trông rừng trà. Cây trà tổ được quét vôi chống côn trùng, đặt hệ thống tưới nhỏ giọt. Những búp trà hái lúc sương còn chưa tan, gọi bộ đàm về xưởng, lập tức drone cất cánh bay lên, thay người cõng trà xuống nơi chế biến. Trà được đóng hộp thủ công, in hoa văn Mông, trở thành đặc sản quốc gia. Một cân trà đầu vụ có thể đổi cả xe máy, nhưng không ai bán bừa, không ai trộm cắp. Cây tổ là thiêng, là máu của đất, nhưng giờ là máu chảy ấm.
Tết năm đó, lần đầu tiên có màn múa khèn chung giữa trai gái hai bản. Trẻ con nắm tay nhau chạy quanh gốc cây trà tổ, miệng cười giòn như hạt ngô bung nồi. Trung úy Giàng A Long - người đã bám bản suốt những ngày sóng gió, giờ đã là Trưởng Công an xã - đứng bên, lặng im. Có người hỏi:
- Thầy mo từng nói phải máu của đôi trai gái mới giải được lời nguyền. Giờ không máu chảy, sao lại hóa giải được?
Anh chỉ cười, nhìn về phía A Phông và Sẻo Mẩy đang cầm tay nhau đi giữa rừng trà Shan tuyết:
- Có một thứ mạnh hơn máu. Đó là tình yêu và lòng tin.
Bé gái đầu lòng của họ chào đời đúng vào rằm tháng ba, được đặt tên là Sủa Pèng - tiếng Mông nghĩa là “Mùa Xuân Mới”.
Từng bánh trà Rồng Shan tuyết từ tay người Mông Giàng Cao đã vượt đèo, theo chuyến xe tải chạm phố, rồi men theo container ra cảng đi khắp thế giới. Chén trà Shan xưa nhuốm máu tranh chấp, nay chỉ còn vị khói sương rừng già, thơm mồ hôi người giữ đất. Chén trà Shan thơm lộc máu Giàng, thơm sương rừng, thơm tiếng khèn đêm cưới - máu thôi chảy lưỡi dao, mà chảy trong lá trà, nuôi người Mông giữ đất này xanh mãi.
Suối Giàng, đêm 28/6/2025
