Còng gió đi mưa

Thứ Năm, 25/12/2025, 12:24

Cô Rứa ngồi thờ thẫn trong buồng. Mớ tóc bạc khô rối vắt ngang vắt dọc trên gương mặt nhàu nhĩ. Những vất vả đã vò nát cô Rứa. Nhìn tấm ảnh thời trẻ của cô mà tiếc biết bao nhiêu. Hồi đó, nhà nội ở trong vùng tạm chiếm của địch. Ngứa mắt sôi gan cảnh quê xứ bị cày xới, mười bảy tuổi, cô Rứa lén bỏ trốn, tham gia bộ đội. Trong quá trình đi dân vận, cô quen được dượng Thôi là anh nông dân hiền như cục đất.

Sớt tắt điện thoại, tu một hơi hết sạch chai bia lạnh. Cơn gió ảm đạm ghé ngang đưa mùi hương quế thoang thoảng, từng lọn khói nhang tan vào đêm.

Mấy chục cuộc gọi đi. Hắn ít khi nhờ vả ai. Bữa nay, phải lục hết trí nhớ lẫn danh bạ điện thoại, để xin họ một chút thời gian. Từ bọn đàn em du đãng trong xã, tới đám nhân viên quán nhậu đã nghỉ việc bảy đời tám hoánh, thậm chí là những người đồng đội cùng đợt nghĩa vụ quân sự hơn hai chục năm trước. Người bận chăm con, kẻ mắc công chuyện. Đếm trên đầu ngón tay số rảnh, hứa sẽ tranh thủ ghé qua.

Sớt gọi họ đi đám tang dượng Thôi.

Dượng của ta mới chết hồi trưa. Mấy đứa em lại không có bạn bè chi ở đây. Nhìn cảnh đưa tiễn hiu hắt quá, không đành. Tụi bây sắp xếp tới thắp cây nhang cho đỡ buồn hỉ.

Thực ra, mấy tên lêu lổng mà Sớt vừa gọi, tất cả đều biết thằng Lụm - đứa con trai thứ hai của dượng. Những người đồng đội của Sớt thuở xưa cũng là đồng đội của Mai - đứa con trai cả. Và, đám nhân viên quán cũ đã từng làm chung hoặc biết mặt thằng út Lại. Cái xã bé xí, loanh quanh một vòng liền gặp người quen. Nghĩa tử là nghĩa tận. Nhưng, nếu Sớt không mở miệng đánh tiếng, chắc chả có “ma” mô ghé qua. Cái đám lèo tèo vài người hàng xóm cạnh nhà. Cũng phải, thân thiết chi đâu mà tới.

z7340098293583_5e2c50eb1a5f757827bdc6084318a067.jpg -0
Minh họa: Hà Minh Hưng

Ba anh em con nhà dượng Thôi đi mất hút bao nhiêu năm, Tết nhứt không thấy ló mặt về nhà. Đường không đi mọc đầy cỏ dại, người không qua lại sẽ thành lạ xa. Đám cưới, tân gia của bạn bè đều không tham dự, thì đổi lại họ sẽ không góp mặt vào lúc mình cần. Ngay cả đám ma, giỗ quảy trong tộc họ, tụi nó còn mượn cớ bận để trốn biệt. Bận, quanh năm suốt tháng đều bận. Ngày mô cũng bận chớ có ngày mô cởi đâu! Nói lắm chỉ tổ tốn nước miếng, không đứa nào chịu mở não ra suy nghĩ. Bận quá nên ngày đưa tang ba mình, tới con ruồi còn nhác bay qua.

Đáng lý Sớt mặc kệ mọi thứ, nhưng cứ nghĩ tới dượng Thôi, lại chớm xót xa. Bỏ qua những chuyện râu ria, dượng quả thực là người biết trước biết sau. Từ ngày lấy cô Rứa, đám giỗ nào của ông bà nội, dượng Thôi cũng có mặt. Giẫy mả, chạp mả, trùng tu hoặc xây mộ mới cho dòng họ, chưa bao giờ thiếu dượng. Trời dông trời bão, dượng chặt cây trẩy cành, chèn tôn cột cửa giúp nhà Sớt. Cả người ba Sớt được tạo nên từ rượu, ốm yếu như que tăm, cầm cái rựa cái cuốc không nổi, toàn đứng chỉ tay năm ngón, một tay dượng lo liệu mọi việc nặng nhẹ lớn nhỏ. Lúc sống, dượng đã hết lòng với bên nhà vợ. Tới lúc dượng chết, phận làm con cháu không lo liệu chu toàn thì lại dở.

Cô Rứa ngồi thờ thẫn trong buồng. Mớ tóc bạc khô rối vắt ngang vắt dọc trên gương mặt nhàu nhĩ. Những vất vả đã vò nát cô Rứa. Nhìn tấm ảnh thời trẻ của cô mà tiếc biết bao nhiêu. Hồi đó, nhà nội ở trong vùng tạm chiếm của địch. Ngứa mắt sôi gan cảnh quê xứ bị cày xới, mười bảy tuổi, cô Rứa lén bỏ trốn, tham gia bộ đội. Trong quá trình đi dân vận, cô quen được dượng Thôi là anh nông dân hiền như cục đất.

Sau giải phóng, hai người cưới nhau, cả chục năm mới đẻ thằng Mai. Bình thường, cô nói một dượng chưa bao giờ cãi hai. Vợ chồng rủ rỉ rù rì cắm mặt làm ăn, ít khi nào la lộn. Nhưng, trong cơn say, dượng Thôi như bị ai mượn xác. Rượu là thứ khủng khiếp có thể khiến con người đánh mất lý trí hoặc thực ra bản chất hung hăng đã được đánh thức bởi hơi men. Mỗi cái vung tay là mỗi lần cô Rứa rát mặt. Mỗi cú giơ chân là mỗi bữa cô Rứa bầm mình.

Có đận, cô chạy lên nhà cầu cứu ba Sớt. Nhưng, ông anh vợ và thằng em rể ngồi bên ly rượu thì cơn tức giận chưa lên khỏi cổ đã trôi tuột xuống theo men say. Một chín một mười chớ ai hơn ai thua ai mà lên mặt. Những lúc đó, cô Rứa và má Sớt ngồi thở than đôi câu với nhau, rồi lại phủi mông đứng lên, người ra phố buôn nhôm nhựa, người xuống biển cào ốc ruốc. Quên cơn đau trên da thịt bởi cái bụng đang cồn cào.

Trên đời này có những người đàn bà kỳ lạ như cô Rứa hay má Sớt. Dù phải chịu bao nhiêu cực khổ, bị chồng đánh đập bầm mày tím mắt đủ kiểu, mỗi ngày rửa mặt bằng nước mắt hay thậm chí có khi ăn cơm chan máu. Thì tới lúc chồng chết, họ vẫn đau lòng, suy sụp. Họ thương chồng bằng thứ tình cảm mà Sớt nghĩ nát óc không hiểu. Nhìn cô Rứa sầu não bã bượi, con cái lại ơ hờ ngó nghiêng, Sớt càng phải thu xếp xong xuôi cái đám của dượng.

*

Sớt tỉnh dậy sau ba tiếng trống tang. Đã có người tới viếng. Cả đêm nhậu với thằng út, lại canh thắp nến trên quan tài dượng, Sớt vẫn đủ sức cho ngày cuối trước khi mở cửa mả. Sớt ngó quanh quất không thấy, liền đi xuống bếp tìm. Cô Rứa đang cầm cái bánh rôm, phủi phủi mấy con kiến riện rớt xuống đất, vài hạt mè dính bên ngoài cũng rớt theo. Cô cắn từng miếng bánh dịu ngắt dai dính, uể oải nhai. Chắc bánh dư lại từ hôm bữa đang đi bán thì nghe tin dượng mất. Miếng bánh còn vị ngọt không, hay đã chua hư rồi? Bình thường, bánh rôm luôn được cô bọc kỹ trong lớp ni-lông để tránh gặp gió, giữ lớp vỏ bên ngoài đủ giòn thơm.

Hồi nhỏ, mỗi lần xuống nhà, Sớt luôn thấy cô Rứa lọt thỏm giữa bàn bột bánh. Bột nếp được trộn và nhồi kỹ làm vỏ bánh. Đậu xanh đem hấp chín rồi tán nhuyễn và xào với gia vị để làm nhân. Viên đậu xanh vào chính giữa lớp bột rồi vo tròn và lăn qua một lớp mè, sau đó chiên trong chảo cho vàng ruộm. Mấy chiếc bánh rôm bé xíu mà ngọt lịm thơm mè, ngoài giòn trong dẻo, ú ụ nhân. Bánh làm ra bán hết trong ngày nên bữa nào cũng tất bật từ lúc đàn gà còn đang say sưa rúc đầu vào cánh.

Cô Rứa bê thau bánh đi hết mọi nẻo đường, ngõ xóm, kéo theo tụi con nít bu quanh. Thời đó, bọn trẻ con mê bánh rôm lắm. Năm trăm đồng một cái, tranh nhau ăn vội ăn vàng. Mỗi buổi cô bán được mấy thau đầy. Đó là những ngày sau mùa lúa mùa đậu, hoặc ngay cả khi trong mùa, cô cũng tranh thủ làm bán kiếm thêm.

Thỉnh thoảng, người trong xóm lại bắt gặp cô Rứa ngồi ở đầu chợ bán mấy trái mướp, rổ đọt bí, vài bó rau muống nhà trồng hay chục trứng gà so tự nuôi. Trời nắng, cô làm xu xoa thanh mát; qua mùa mưa, cô bán đậu hũ nóng. Nhà cách biển bảy, tám cây số, cô ráng đạp xe xuống bãi cát chen nhau với bà con làng cá, đêm soi pin đào còng gió, sớm đốt đèn cào ốc ruốc, đem về bưng thúng đi rao.

Còng rang mắm thơm lừng, là mồi nhắm ngon nhức răng của đám đàn ông quê háu rượu. Còn ốc ruốc là món khoái khẩu của các bà các cô mỗi chiều hè tụ tập, vừa hí hoáy lể ốc, vừa rôm rả buôn chuyện sau một ngày cắm mặt vào ruộng đồng. Chắc cô Rứa có ngủ nghỉ, vào lúc nào đó mà ba đứa con trai cô không hay biết. Đúng như người ta truyền tai nhau rằng “tam nam bất phú”. Cô bươn bả cày ngày cày đêm, muốn trọc cả đầu tóc vẫn bữa mắm bữa rau.

Nhưng, dẫu cô Rứa làm chi, đi mô, rồi cô cũng ở nguyên đó, mỗi sớm dậy nấu cơm, mỗi tối về giặt giũ. Cô khác má Sớt, má đi buôn ngoài phố, chục ngày nửa tháng mới về nhà, ngủ một giấc, thức dậy lại quảy gánh đi. Trong những đêm bị ba cầm rựa rượt chạy, phải ngủ lang dưới mái hiên nhà người khác, trong những bữa bụng đói mò xuống nhà cô xin cái bánh rôm ăn cho bớt đắng miệng, thằng nhóc Sớt đã ước chi mình có người má như cô Rứa. Như thể cô có ba đầu sáu tay, tay nào nhồi bột trồng rau đào còng gặt lúa, tay nào dọn dẹp giặt rửa nấu nướng cúng giỗ, vẫn chừa lại một tay giơ ra che chắn cho ba đứa con khỏi những trận đòn.

Hoặc, có thể dượng Thôi chỉ trút cơn điên cuồng xuống đầu cô Rứa, mà không thèm đếm xỉa tới đám con đang co rúm trong góc nhà. Vốn dĩ, lúc tỉnh táo dượng hiền như bột, nói chi nghe nấy, chỉ đâu đi đó, ai nhờ vả cũng làm. Có lẽ nào trong một con người lại tồn tại hai nhân cách. Hay, bởi cái nghèo khiến con người ta trở nên cục súc, hằm hè, la chửi, ném chén đập tô. Sau một ngày làm hùng hục như trâu mà tới bữa cơm không có miếng ngon, tới lúc mặc không sắm được cái áo đẹp, người ta dễ bực dọc, hao hụt ý chí.

*

Bữa đó, thằng út Lại rón rén đẩy cái phong bì về phía Sớt. “Em có ít tiền, anh xem gởi cho ai để họ làm nhanh giùm tụi em”. Sớt nhăn trán, hai đầu chân mày nhíu lại sắp dính vào nhau. Gởi cho ai là gởi ai? Môi trên nhếch lên, tay vẫn mở ra, liếc mắt kiểm tra. Tụi nó “cúng” cho ông Nhánh bên dịch vụ làm sổ đỏ những tám chục triệu, gần một năm nay vẫn chưa ra kết quả. Tới khi nhờ Sớt thì đưa được năm triệu đồng. Chỉ đủ một bữa nhậu! Mà Sớt dư sức mời người ta no nê. Sớt là chủ quán nhậu ngon nhứt xã, khách ghé chật ních mỗi đêm. Cũng nhờ rứa, Sớt mới có nhiều mối quan hệ, quen biết mấy tay đo đạc, mấy anh em văn phòng đăng ký đất đai.

Nghe đồn thằng Mai có quen biết nịnh nọt ai đó ở trên tỉnh. Nó cứ nghĩ đút cho họ cái phong bì là xong. Ai dám nhận, không cẩn thận sẽ đi tong, ở tù cả đám. Họ làm việc theo trình tự, thủ tục. Nó đòi vượt cấp, người ở xã mà biết được, lỡ họ ghim là chịu chết. Biết đâu, họ gạt hồ sơ qua một bên, không hướng dẫn cụ thể hoặc kiếm cớ chưa đúng quy định, chưa đủ điều kiện. Cứ giậm chân tại chỗ mấy năm cho giấy tờ phai màu mực thì nhăn răng cười chớ làm chi được. Biết bao người phải quỳ lạy rớt răng văng nước miếng còn chưa xong.

Thực tình, Sớt đâu đủ khả năng hay quyền hạn chi tác động tới công việc của các cán bộ. Nhưng, Sớt có thể nhắc sơ qua khi đưa ly bia lên cụng mời. Họ không nhận tiền bạc, phải giữ cái ghế của mình sạch sẽ để yên ổn ngồi. Mà vài bữa nhậu thì được. Chỗ quen biết, vài câu nói thôi. Vui vẻ nể mặt, họ sẽ để ý hơn chút, xếp hồ sơ đất đai của nhà cô Rứa lên đầu tiên, giải quyết trước. Đúng như dự đoán, chỉ hơn một tháng đã ra sổ đỏ.

Chẳng qua, Sớt xót dượng Thôi, thương cô Rứa. Làm xong giấy tờ sớm để bán đất lẹ lẹ, lấy ít đồng làm chi làm hoặc mua thêm chi đó cho dượng ăn. Sớt có linh tính, cây đèn leo lét suốt tám năm qua sắp tắt rồi. Y như rằng, vừa nhận được tiền bán đất liền phải tổ chức đám tang.

Đất của mình, dượng không ăn được, càng không được chôn. Giờ đã thành đất của người ta. Tưởng đâu chỉ bán một lô, nhưng ba anh em Mai, Lụm, Lại nhỏ to với cô Rứa, bán sạch bách. Miếng đất bên hông cùng căn nhà cộng lại gần ba trăm mét vuông. Sớt vẫn còn nhớ, lúc nhỏ, mỗi khi ba say long trời lở đất, Sớt thường chạy xuống nhà cô Rứa trốn. Hồi đó cô còn ở trong cái nhà mái lá dừa, phên tre, mỏng manh tưởng như gió thổi là bay hoặc giơ chân đạp phát sẽ sụp ngay. Gom góp bao lâu, dành dụm nửa đời người, cô dượng mới xây được căn nhà mái ngói tường gạch khang trang. Chừ tụi nó nói bán là bán cái rẹt. Rồi, sau này cô ở đâu? Bài vị dượng Thôi đặt chỗ nào? Bọn mất dạy đó chả thèm quan tâm.

*

Điên rồi! Điên hết rồi!

Sớt lồng lộn lên khi nghe tin cô Rứa đã leo lên xe đò đi vào miền Tây. Sau hai chục năm không sống chung ở cạnh, thằng Mai bày đặt đòi phụng dưỡng má. Nó xây nhà trên mảnh đất của ba vợ tại nơi gần cuối bản đồ đất nước. Theo cách nói của người ở trỏng, thì chỗ đó đúng nghĩa mút chỉ cà tha. Trơ tráo thực sự. Toan tính cỏn con của tụi nó, Sớt có lạ chi. Mấy đợt cô Rứa đau nằm viện cả tháng, Sớt vào thăm lén nhét tiền dưới gối, sợ út Lại thấy được sẽ nịnh nọt bợ đi.

Có lần, cô đi cào ruốc dưới biển lên, ngang qua cánh đồng, bị trâu húc gãy chân sém lòi ruột, ba thằng con trời đánh chẳng thèm về ngó thử sống chết thế nào. Bây chừ phải vẽ chuyện làm nhà đón má vào, thì mới có cớ cầm nốt bốn trăm triệu đang trong tay cô Rứa. Còn chút tiền cô để dành dưỡng già, phòng lúc ốm đau mà tụi nó cũng ráng bào cho bằng hết.

Miếng đất nhà cô Rứa bán được hai tỷ sáu. Tốn năm trăm triệu tiền nợ thuốc men chạy chữa cho dượng Thôi suốt tám năm qua. Nào cấp cứu, truyền dịch, máy thở, máy điện tim, đo huyết áp, máy hút đờm, nệm chống loét. Nào tã bỉm, nước yến, đồ đạc linh tinh. Thế mà thằng Mai dảnh mỏ lên chửi, kêu cô Rứa đốt tiền vào bài bạc lô đề hay chi. Mai đâu biết, gần một ngàn ngày chăm dượng đột quỵ đã bào mòn sức lực cô Rứa. Dượng nằm suốt trên giường, ăn uống ỉa đái tại chỗ, một tay cô lo liệu. Chắc cô mang nợ dượng từ kiếp trước như lời cô thường tự vỗ về mình.

Thằng út Lại cầm ba trăm triệu đưa bọn cho vay nặng lãi. Nó nằng nặc biểu mình bị bạn lừa, đứng tên vay giùm rồi phải gánh lãi mẹ lãi con. Lại chỉ học hết cấp hai, không nghề ngỗng trong tay. Sớt đã từng nhận Lại làm nhân viên chạy bàn, tính tiền, coi quán. Chuyện thu chi, dăm bảy đồng thất thoát như vòi nước rỉ giọt chẳng thấm vào đâu, Sớt không chấp. Nhưng, Sớt ghét cay ghét đắng cái thói táy máy tay chân, nên đuổi thẳng. Lại phiêu dạt vào Nam, chạy việc trong xưởng gỗ, ăn ở chủ lo, kiếm tiền thật đem đổi lấy tiền ảo. Tay trắng làm ra một đống nợ, Lại quay ngược dựa vào cô Rứa.

Thằng Lụm xin bốn trăm triệu làm vốn mở quán để vợ buôn bán. Nó là đứa duy nhất trong nhà có vẻ như vẫn thương má mình. Nhưng, ba đứa con lóc chóc không cho phép một thằng thợ cắt tóc có thời gian rảnh để ngó thấy giọt nước mắt chảy ngược. Nếu năm đó, nó đừng lỡ bước vào trại giáo dưỡng, biết đâu cuộc đời đã khác. Làm lại cuộc đời từ vũng bùn, phải cúi mặt gom từng đồng tiền nhàu nát. Mà Lụm cũng giống tính dượng Thôi nhất. Bình thường ít nói, ai làm chi đều cười trừ, nhưng rượu vào vài ly thì người đổi nết thành cục cằn hết cỡ.

Riêng thằng Mai ẵm đúng một tỷ. Trước đây, mỗi lần trúng thầu, một công trình nó nhận vài trăm triệu. Mấy năm nay, bùng dịch COVID, rồi nhà nước siết chặt quản lý, bất động sản đúng nghĩa “bất động” khiến Mai chật vật loay hoay. Chưa thỏa mãn với số tiền cô Rứa cho, nó phải bào sạch mới thỏa.

Ban đầu, Mai dụ dỗ cô Rứa mua một miếng đất bé xíu ở xã. Phần cô phải đi thuê nhà trọ ở tạm. Mỗi tháng đóng một triệu rưỡi, căn trọ bé bằng cái lỗ mũi, ngủ nghỉ, nấu nướng, vệ sinh gói gọn trong mười mấy mét vuông. Vài tháng sau, Mai gọi về rủ rỉ rù rì, cô Rứa bán luôn miếng đất vừa mua. Cô vội vàng quá. Hay, bởi vì dượng Thôi đã chết, cô không còn nơi nào để bấu víu, không còn điều chi để thiết tha. Nghe thằng con mở lời ngon ngọt, cô liền nghe theo bất chấp.

Đồ đạc nửa bán nửa cho, dọn sạch sẽ căn trọ. Hành lý của cô chỉ có cái túi xách cũ rích đựng quần áo và vài hộp thực phẩm chức năng mà má Sớt dúi vào tay. Cô không mang theo bài vị dượng Thôi. Tấm di ảnh nằm nép sát góc trên ban thờ lạnh ngắt tại nhà em gái và em rể của dượng. Rồi, giỗ quảy, giẫy cỏ, chạp mả, ai sẽ làm? Hay, ngay cả nén nhang trên ban thờ dượng còn thiếu người thắp.

Đúng nực cười. Trần đời chỉ chim đi tìm tổ chớ tổ nào có bao giờ tìm chim. Thế mà, cô Rứa lại bỏ nhà cửa, bỏ ông bà, bỏ quê xứ, lặn lội hơn ngàn mốt cây số để có thể sống cùng con cháu. Rồi, có sống nổi không? Bao năm qua con dâu và cô Rứa chưa từng sống chung, lễ Tết cũng không thấy mặt. Ngày dâu sinh, má chồng đâu chăm sóc. Lúc cháu bệnh, bà nội chẳng hỏi han.

Mấy năm dâu cháu mới về thăm một lần. Có khác chi người dưng kẻ lạ. Thằng Mai làm “chó chui gầm chạn” đã đành. Giờ mẹ chồng vào ở trong nhà con dâu, trên mảnh đất của ông sui gia, liệu họ niềm nở đón chào hay nhăn nhó đuổi gấp. Sớt bực dọc tức tối nhưng đâu thể khuyên ngăn, bởi lời nói ra sẽ thành dài hơi dài mỏ.

*

Đang cao hứng với đám bạn nhậu thì Sớt nghe có tiếng chuông điện thoại. Thằng Mai gọi, câu nói đứt quãng, giọng điệu khẩn trương. Cô Rứa đi đâu bặt tăm. Nó tìm ba, bốn ngày mà chưa thấy bóng dáng cô. Rối quá, đành cầu cứu Sớt. “Anh có quen ai trong Nam không, có bạn bè mô hay có cách chi tìm má giúp tụi em...”. Sớt hơi nhếch môi. Đáng lý ra không nên đáng đời tụi nó vào lúc cập rập ni, nhưng Sớt không khỏi thoáng nghĩ. Cho biết mùi, chỉ giỏi nói cái miệng. Lời vẽ vời to như con voi mà việc làm được bé như con muỗi.

Sớt lên mạng đặt vé máy bay chuyến sớm nhất. Tới nước này còn nhờ ai nữa, phải tự mình đi giải quyết thôi. Trong bụng nóng ran, ngồi trên máy bay mà hai đùi giật rung rung như mắc bệnh run chân. Má ruột đẻ ra mình, đôi lúc Sớt có trách giận. Chớ cô Rứa thì Sớt thương một nước. Phải lạy lục nhờ vả hết đám bạn bè quen biết từ mấy năm lang bạt, mới tìm được địa chỉ của cô. Nghĩ lộn gan lên đầu! Lỡ cô sứt mẻ miếng nào chắc Sớt sẽ đập ba thằng em họ ra bã.

Sớt gặp cô Rứa ở cuối con dốc dẫn lên ngôi chùa trên rừng thông bạt ngàn gió. Ngỡ ngàng. Cô xác xơ như con còng gió dưới cơn mưa tối mù, cái hang nông trên bãi cát đã bị nước biển cuốn phăng, từng hạt mưa tới tấp trút xuống lớp vỏ mỏng mềm. Thiệt ra, vào đêm trở trời mưa lạnh, còng gió thường trốn rất kỹ trong những cái hang sâu lắt léo. Bất cứ người nào hay con gì trên đời này đều biết chừa đường lui cho mình.

Cô quyết tâm xuống tóc đi tu. Chồng con như món nợ đời, nghiệp trả xong rồi còn luyến tiếc chi. Nhưng, đường tới cửa Phật trắc trở quá, phải chăng cô chưa đủ căn duyên? Người ta chưa sắp xếp được chỗ ở trong khuôn viên chùa. Từ nơi trú tạm, cô phải đón xe buýt đi nửa tiếng, xuống trạm, đi bộ leo dốc hai mươi phút mới thấy cổng chùa. Đôi chân cô Rứa từng giẫm mòn bao nhiêu ngõ hẻm, băng qua biết mấy mùa lúa khoai, giờ đã rệu rã như cỗ máy gỉ sắt, hỏng ốc vít, chẳng chịu nổi quãng đường ngắn quẳn đó. Hay, bởi cô Rứa đã thiếu lòng thành. Cứ tưởng nhà chùa nhận thì từ nay không phải lo cơm áo. Một chén cơm chay rau dưa, một tấm áo tràng mỏng manh qua ngày, đợi chết. Nhưng, mọi sự tính trước đều có khả năng bước hụt. Cô Rứa ốm rạc người, từng hơi thở nặng như mang theo cả gánh đá.

Nhà chùa không phải là nơi để chạy trốn. Đau khổ đâu hết được chỉ bởi vì cạo đầu xuất gia. Đời tu có những khổ hạnh riêng, phải tìm thấy sự an lạc và niềm vui phụng sự thì mới theo được tới cùng. Về thôi cô, cô còn quê, còn đứa cháu ruột dư sức chăm nuôi, còn người chị dâu vừa thoát mệnh khổ y hệt mình. Hai đứa cháu gọi bà nội cô vẫn đang đợi người về chiên chiếc bánh rôm giòn ngọt. Ba con mất rồi, người thân chỉ còn má với cô. Con sao nỡ bỏ! Về đi, có nhà má, nhà con, hoặc cô muốn ở nhà thuê cũng được. Gần bà con họ hàng, gần mồ mả ông bà, gần phần đời mấy mươi năm cô đánh đổi. Quê mình cũng có chùa, cô muốn tụng kinh niệm Phật đâu cần phải lặn lội xa xôi thế.

Gió từ rừng thông thổi xuống, khô xót hai cặp mắt đỏ hoe. Ngó lên con dốc thấp thoáng cổng chùa, thấy sao mà vòng vèo thăm thẳm. Thôi rứa, mai cô cháu mình về...

Truyện ngắn của Ny An
.
.