Nhân

Thứ Hai, 18/03/2019, 08:02
Gã đến từ đâu không ai biết. Và cũng chẳng mấy ai quan tâm xem kẻ có khuôn mặt nửa người nửa quỷ ấy đến từ đâu, tên là gì. Người trong xóm không ai gọi tên gã. Gã dựng căn chòi từ những tàu dừa tươi. Đến lúc những lá dừa trơ ra gã vẫn để nguyên thế... 

Mưa. Cứ mưa là ngập. Mùi xú uế lại bốc lên nồng nặc. Mấy cái đầu thò ra từ những ô cửa. Có tiếng thở dài. Có tiếng chửi thề. Tiếng mấy con chó vọng ông ổng từ những lỗ tường vỡ.

Trong ngôi nhà bỏ hoang, mấy gã đàn ông cởi trần ngồi uống rượu. Những câu chuyện tục tĩu trên đôi môi bè ướt rượu. Bóng mấy người đàn bà lúp xúp nón đi như chạy.

Mụ có khoa lễ trong điện. Người ta tin vào thánh thần, tin vào những điều tốt đẹp mà chỉ có thánh thần mới mang lại được. Cũng như người ta tin mụ có thể gọi hồn người chết về nói chuyện với người sống. Người ta tin vào những lời mụ nói khi mụ nhập vai cô Bơ, mặc áo dài trắng, thắt dải lụa hồng, đội vấn trắng, tay cầm hai mái chèo mềm mại, lướt trên chiếu điện như trên dòng sông Ngân. Mụ biến mình là cô Bơ trong truyền thuyết của người làng. Không phải là mụ, người đàn bà đã ở tuổi tứ tuần, không chồng, không con, bơ vơ trong một ngôi nhà nằm trên thẻo đất "độc".

Thẻo đất mụ ở là thẻo đất của gã mặt quỷ.

Gã đến từ đâu không ai biết. Và cũng chẳng mấy ai quan tâm xem kẻ có khuôn mặt nửa người nửa quỷ ấy đến từ đâu, tên là gì. Người trong xóm không ai gọi tên gã. Gã dựng căn chòi từ những tàu dừa tươi. Đến lúc những lá dừa trơ ra gã vẫn để nguyên thế. Gã có một chiếc thuyền, hằng ngày gõ mái chèo thả cá trong con mương của làng. 

Khuôn mặt bị những vết sẹo chằng chịt kéo sụp một con mắt và nhăn nhúm nửa khuôn mặt trái. Chỉ còn trơ ra một bên mắt trắng nhợ. Nhìn vào đó thấy một nửa của con người tật nguyền đáng thương. Một nửa chả phải người. Cả người gã toát ra một thứ mùi rất lạ. Chỉ cần gã đứng cách đó một đoạn là mấy con chó ghẻ trong xóm thi nhau sủa ông ổng như nhìn thấy ma trơi. Không ai miêu tả được thứ mùi hương ấy. Chỉ biết thứ mùi hương ấy lại khiến những người đàn bà trong xóm Đông ngây ngất. Hằng đêm xõa tóc ngồi bên bến sông chờ trong mòn mỏi. 

Đàn ông trong xóm Đông coi gã vừa như một kẻ bỏ đi, lại vừa như một cái gai trong mắt. Rồi một ngày người đi làm đồng thấy xác gã nổi trên mặt sông. Trên người chỉ một chiếc quần. Cả khuôn mặt quỷ ám của gã cũng không còn ai nhận ra. Người ta vớt chiếc thuyền lên thì thấy thuyền bị thủng một lỗ. Cái chết của gã nhiều nghi vấn... 

Người trong xóm mang xác gã vùi xuống đám đất cạnh lùm cây ké dại trong nghĩa địa của làng. Gã chết. Nhưng thẻo đất gã ở thì không ai đến ở được. Cứ dựng nhà được một ngày, ở trong một đêm thì phải chuyển nhà đi, hoặc chủ nhân chết không rõ nguyên do. Vậy nên dù những người nghèo không có chỗ dung thân lang bạt từ khắp nơi, về xóm ven nghĩa địa này sống chen chúc thì thẻo đất ấy vẫn còn nguyên. Ban đêm đi qua vẫn còn ngửi thấy mùi hương phảng phất, người ta bảo nhau gã chết oan nên hiện về để bắt hồn đàn bà, con gái trong làng. Từ đó thẻo đất để cỏ dại mọc tua tủa, những lùm ké gai góc đâm lên như những búi chông, xước cả chân chó chạy qua.

Minh họa: Phạm Minh Hải

Cha mụ, người đàn ông bắp tay rắn như bắp cày trở về từ vùng Tây Bắc, dắt theo người đàn bà da trắng như cánh hoa ban, tóc đen dài, cổ cao, mắt xếch, tìm nơi sinh sống. Ông phát cỏ, chặt ké, dựng nhà trên thẻo đất hung. Xóm Đông xôn xao: "Vợ đẹp thế kia. Rồi mà lại chết mất xác". 

Cuộc sống bình yên nhưng mấy năm vẫn chỉ hai vợ chồng ra vào, mãi không có con. Nghe lời vợ, ông xây một ngôi miếu nhỏ, chỉ đặt nến không đốt hương. Đêm nao trong miếu cũng đỏ ánh nến bập bùng. Người làng bảo trong miếu toát ra một mùi hương rất lạ, như mùi hương trên người gã mặt quỷ năm xưa… Mụ chào đời trong niềm vui của cha mẹ, trong ánh mắt tò mò của người làng.

Cả xóm Đông càng kinh ngạc khi đứa bé gái có làn da trắng, đôi mắt xếch giống mẹ. Nhưng khi nhìn vào gương mặt đẹp ấy, người ta lại thấy một nửa nỗi buồn của kẻ bị bỏ rơi, một nửa nỗi đau của kẻ trả thù đời. Trên người mụ toát ra một thứ mùi hương rất đặc biệt. Không phải mùi của một loài hoa. Cũng không phải mùi của trăm loài hoa. Không phải mùi của một thứ gỗ trầm. Cũng không phải mùi của trăm thứ gỗ trộn vào. Họ nhớ đến thứ mùi hương làm cho đàn bà trong làng hóa dại...

Bông hoa độc.

Cha mụ nằm ngủ qua một đêm, sáng ra thì không còn tỉnh dậy. Người trong xóm kéo đến thì cả người đã lạnh. Họ nhìn vào mặt mẹ mà rủa: Thứ đàn bà độc! Đẻ ra đứa con của gã mặt quỷ! Mẹ gào lên. Trong đôi mắt xếch ngược chỉ thấy hai đốm máu đỏ lịm. Mẹ thành người điên, xõa tóc ngồi bên bến sông mỗi tối. Rồi chết dưới con mương nước chưa ướt ngực. Mụ khóc. Mụ chạy ra, soi mình trong con mương nước, chỉ thấy gương mặt mình vỡ ra, trên sóng nước lăn tăn là một gương mặt với những đường sẹo nhằng nhịt, đôi mắt trắng nhợ nhìn mụ cười. Mụ tát vào khuôn mặt ấy. Nước tung tóe. Mặt trời vỡ ra trên mặt nước, như màu máu loang khắp mặt sông.

*

                Nắng hắt từ phía ngôi nhà đổ.

Đám trẻ con nhìn đôi môi lúc nào cũng đỏ au của mụ thì bảo nhau mụ chuyên đi hút máu người âm nên môi lúc nào cũng thẫm như quả vối chín. Đàn bà trong làng soi vào ngực mụ mà rủa, loại đàn bà đẹp thì cũng chỉ để cho ma sờ. Đàn ông chỉ thích nhìn mụ lướt thướt trong tà áo dài trắng. Mùi hương theo gió bay vào những cái mũi chun trên những gương mặt hênh hếch. Họ kháo nhau về mùi hương toát ra từ người mụ. Nó gạt đi thứ mùi xú uế hằng ngày mà họ phải chịu đựng từ bãi rác, hay từ những đám mộ mới bốc ngoài nghĩa địa. Cả xóm Đông bảo nhau mùi trên người mụ là mùi của một thứ bùa ngải. Thứ mùi hương của ma quỷ. 

Những gã đàn ông muốn chạm vào mụ mà lại không dám chạm. Mụ thành ra như một bông hoa dại đẫm hương, nhưng là thứ mùi hương có độc.

Từ ngày cha mẹ mất, mụ thành kẻ lạc. Lạc trong cái xóm nghèo xơ xác, giữa những con người khổ sở. Dù mụ cũng chả sung sướng gì.

Mụ thắp nến trong miếu, châm lên từng ngôi mộ hoang lạnh ngoài nghĩa địa. Ánh sáng như những vì sao nhấp nháy. Mụ cười. Hàm răng trắng đều như hạt bắp. Chỉ có đôi mắt là mơ hồ, đắm vào thế giới của những linh hồn đang di chuyển xung quanh. Tất cả đều mỉm cười. Gương mặt nào cũng khốn khổ. Miệng mụ rít lên nhưng nước mắt thì khô đặc. Gió lay những chiếc vòng nơi cổ tay, cổ chân lanh canh, leng keng... 

Đôi bàn chân giẫm lên những viên xỉ vụn lạo xạo. Cả người bay lên. Như cọng lông gà vừa bứt. Những đôi mắt vô hồn nhìn mụ đầy ngưỡng mộ. Những nụ cười bật ra từ những mảng bê tông nứt rạn. Gió lách mình sau những ngôi mộ hoang, xiên qua những lá cỏ sắc nhọn dưới đất ẩm rồi phả lên tóc, thứ mùi của trầm hương đốt dở, thứ mùi của cỏ dại ngậm sương ngai ngái. Mụ xoay tít. Tóc quất vào gió. Tiếng vòng bạc lanh canh, leng keng.

Mụ nằm vật ra, mái tóc đen sũng phủ lên mặt. Đêm ấy trăng sáng. Những tiếng thở mệt nhọc của những đôi mắt sau song cửa gỗ mọt. Rồi họ lặng im. Những mái nhà xiêu vẹo chìm vào đêm. Mụ chìm trong sương. Lạnh.

*

Mặt trời nhô lên từ phía ngôi nhà đổ đầu ngõ. Soi rõ những viên gạch đỏ đang vữa ra, những tàng bụi đỏ lờ lờ bay trong tia sáng rọi. Những cánh cửa bắt đầu mở. Những mái đầu đàn bà lúi húi xô chậu, con cái. Tiếng quát. Tiếng trẻ con khóc ngằn ngặt. Tiếng chửi tục tĩu. Tiếng khạc nhổ. Mụ đứng lặng trước người đàn bà khuôn ngực lép kẹp sau lần áo mỏng, chiếc nón tuột vành, sụp xuống che nửa khuôn mặt, chỉ còn trông rõ đôi môi thâm xì. Giọng gã chồng không ngớt hằn học: "Loại đàn bà chỉ biết ăn, không biết đẻ". Tiếng bà vợ khùng khục trong cổ họng, không nghe rõ. Mụ cúi xuống. Đôi mắt ngước lên, nhìn rõ hai đốm máu. "Đồ đàn bà ma ám!".

Nến được thắp đều. Khói hương nghi ngút. Ngựa trắng. Quần áo đủ màu, đủ cỡ cho người già, trẻ nhỏ, đàn ông, đàn bà. Giày dép cũng đủ cỡ. Những hình nộm xếp hàng ngay ngắn hai bên cửa điện. Những đôi mắt xếch, chấm đen tròn xoe chính giữa hướng ánh nhìn vô định về phía trước. Đầu vấn khăn, chân đi hài, tay cầm đĩa nến lèo xèo cháy, mụ ngồi xếp chân, phủ tấm vải thêu hoa đỏ lên đầu. Xoay tít. Những người trong điện xì xụp. Ngẩng lên. Lại cúi lạy. Khấn. Xin. Lầm rầm. Khói hương nghi ngút. Mụ rít lên. Tiếng nhạc i ỉ, khê nồng. Tiếng vòng bạc lanh canh, leng keng. Mụ rạp người, đầu chạm đất. Xoay. Ngả ngớn. Tiếng nhạc run. Tiếng cốc chạm nhau lách cách, lách cách. Tất cả nhỏ dần. "Xe giá hồi cung". Mụ lặng người, tóc rối bời.

 Nghĩa địa hút gió. Mụ thất thểu xách túi "lộc", dúi cho mấy đứa trẻ mặt mũi lem nhem đang chầu chực mấy đám tạ mả gần nhà. Chúng chưa kịp chìa tay ra lấy thì đã bị giật phắt, lôi về, trừng mắt: "Mày ăn của ma rồi mày ra ngoài nghĩa địa mà nằm". Vẫn là tiếng nói từ đôi môi thâm xì và hơi thở phập phồng từ lồng ngực lép kẹp. Mụ chả thèm buồn. Nhặt lên, lau vào vạt áo, cho vào miệng. Nuốt. Mụ cười. Đôi môi còn mọng đỏ, răng đều như hạt bắp.

Đêm.

Mụ soi mình trong chiếc gương vừa lòng bàn tay. Chiếc gương người ta thường bỏ vào áo quan chôn theo người chết. Từng nét trên gương mặt người trong gương hình như chẳng là mụ. Đôi môi không tô son mà cũng đỏ lựng. Cái mặt trong ánh trăng lấp loáng mà bóng, bóng như được phết một lớp dầu thật mỏng. Ngực hõm, cổ cao. Mụ cười. Ánh trăng loang loáng trên mặt gương trong lòng tay mụ. Mặt trăng sóng sánh. Mụ đánh rơi chiếc gương. Những tấm kính xanh cứa vào đầu ngón chân. Máu tứa ra, trộn vào nền gạch đỏ. Thẫm lại. Mụ nằm vật ra nhà. Mái tóc xổ, còn thoảng mùi thơm rất nhẹ. Mụ phủ mái tóc rối lên mặt. Thở. Tiếng thở thõng thượt theo bàn tay gầy mảnh của mụ từ từ trượt trên thân mình. Ánh nến chờn vờn trên khuôn ngực, trên tấm eo thon. Tàn nến đua nhau rớt xuống. Giần giật. Mau hơn. Khô lại như những hạt máu đỏ bầm trên thân thể trắng muốt. Mụ nghiến răng, rít lên những tiếng dài như gió.

Đêm ấy cả xóm Đông không ngủ. Những đốm lửa giần giật cháy trên những ngôi mộ. Người ta nghe thấy tiếng nghiến răng rin rít như tiếng gió qua kẽ những bụi ké.

Gió từ ngoài khu nghĩa địa thổi vào u lạnh, rờn rợn. Kèm theo cả mùi hăng hắc của những đám mộ mới bốc. Có khi nhìn thấy cả ma trơi nhảy giần giật. Mụ đốt một nắm hương trên ngôi mộ hoang. Nắm hương bốc cháy rừng rực, gió lùa tắt phụt. Khói nghi ngút. Sặc sụa. Xóm Đông đêm ấy mất ngủ vì thứ mùi hương lạ.

*

Thoa lên mặt phấn trắng. Lướt thỏi son đỏ lên đôi môi viền cong cong. Tỉa lại lông mày, vẽ cho thật khéo, kéo dài vừa chạm qua đuôi mắt. Gỡ mái tóc rối bằng chiếc lược sừng. Mụ có một đám mời đến làm lễ. Cắp chiếc nón, vừa chạm tà áo dài trắng thêu hoa đỏ trên ngực, bước chân như mèo hoang ra khỏi cửa.

Nắng trải đều khắp khu nghĩa địa, những tấm bia đen ngòm loáng lên những gương mặt người với hai màu đen, trắng. Mụ cố soi đôi mắt và những linh cảm sẵn có vào phía trước mặt.

Một bóng đen không có khuôn mặt! "Hôm nay anh không có hoa à? Rằm đấy".  Bóng đen im lặng, tan vào gió.

Mặt trời rọi vào mắt, những chấm tròn nhảy nhót. Mụ đi như chạy qua những bóng người dật dờ. Những đôi môi khe khẽ mấp máy nhắc mụ nhớ mua hương hoa và đốt cho họ ít vàng giấy.

Những tấm lưng trần bóng loáng của những gã đàn ông trong ngôi nhà đổ. Uống rượu. Những đôi mắt bầm đỏ. Một tràng cười nhệu nhã của những gã trai miệng ướt rượu. Mụ rùng người bước qua. Người ta bảo ma đáng sợ. Còn mụ thì lại thấy những cái cười ấy còn đáng sợ hơn. Ám ảnh hơn những tiếng rít dài của gió qua khe những ngôi mộ hoang. 

*

Những nóc nhà nằm im lìm, cửa nhà khép chặt. Cứ như hé ra là bao nhiêu mùi xú uế, nồng nặc của khu nghĩa địa lọt thỏm vào trong. Không thở nổi. Nắng gắt một màu cam ngả sang màu đỏ lựng, hệt như màu lửa cháy. Những vệt mây hằn lên thành vảy của một con vật khổng lồ đang há miệng nuốt trọn những ngôi mộ hoang tàn, những mái nhà xiêu vẹo. Sờ vào chiếc làn mây, nhớ ra mình quên mua hương, hoa. Khoa lễ dài khiến đầu óc mụ đau như búa bổ. Mụ mẩm bụng trở về nhà lấy vàng hương, soạn một mâm cơm cúng cho họ về ăn cùng. Những giá hầu đồng dài khiến mắt mụ hoa lên, đầu đau váng vất.

Khu nghĩa địa hoang lạnh chìm trong bóng chiều xám xịt, lởn vởn khói.

Một dáng người nằm co, lưng dựa vào cạnh ngôi mộ. Mắt nhắm nghiền. Trời mới ngả sang chiều. Không lẽ nào? Mụ rón rén.

- Ông chờ tôi đấy ư?

Vẫn thấy cái hình người lặng thinh. Mụ đằng hắng. Giọng mái như trong khoa lễ.

- Tôi có mua hương hoa đây. Để tôi về lấy lửa.

Lửa vừa châm lên thì đôi mắt kia mở. Bóng đen nhảy dựng lên. Mắt chạm vào mắt. Chân chạm xuống đất. Rõ ràng. Thế thì là người. Không phải ma.

- Sao ông lại ngồi đây? Nhà ông ở đâu?

- Tôi không có nhà.

- Ông là người đâu tới?

- Người xóm Đông.

Mụ cúi đầu, bước đi. Bóng đen kéo tay mụ. Cái chạm nhẹ mà khiến cả người mụ giật lên như phải lửa. Mụ hét lên. Bóng đen đưa một ngón tay lên môi mụ. Mụ cố nhìn nhưng không rõ mặt người.

- Bà làm ơn cho tôi xin cái gì ăn!

Mụ luống cuống. Ậm ừ móc trong chiếc làn mây. Bóng đen quay lưng. Mụ ngây người nhìn theo dáng người cao gầy lom khom khuất dần về phía lùm cây ké dại. Mụ chạy theo. Chỉ còn thấy bóng đen. Những ngôi mộ xếp hàng. Chùm ké trong lòng tay rớm máu.

Chiều tắt nắng.

Những buổi chiều đuổi nhau qua những lùm ké dại gai góc. Lôm nhôm và xót đau... Mụ mong một bóng hình bước ra từ phía lùm cây ấy. Nhưng mấy đêm rồi không thấy. Có khi nào?

*

Hai mí mắt chập chờn, ánh nhìn mơ hồ tựa như đôi mắt những hình nộm xếp dài trong điện. Thoáng thấy bóng người đứng trước mặt mình. Vẫn không nhìn rõ khuôn mặt người.

Mụ nắm cổ tay. Xoay xoay trong ánh nến đang leo lét bập bùng. Hơi lạnh vẫn còn trên da thịt. Mụ nằm sõng soài chờ trăng. Con mèo đen rón rén đến gần, liếm láp. Mụ nhấc bổng lên, ôm nó vào ngực. "Ngoao" con mèo chạy dưới ánh trăng mờ mờ hắt lên bậc thềm xanh rêu. Trăng lướt qua những ngôi mộ hoang lạnh. Những lùm cây dại khe khẽ cựa mình, như có bàn tay vừa chạm phải. Ánh nến tắt phụt. Một bóng người chạy dưới trăng. Mụ nhổm dậy, tóc vướng vào những quả ké vương vãi đau dất. Nến, hương trong nhà cũng đã tắt. Đôi mắt mụ chong lên. Mụ ào vào đêm.

Trăng đêm rằm tròn xoe, soi rõ thảm rêu xanh rì trên bậc thềm. Mụ giẫm chân trần trắng nõn trên đám rêu, ngẩng mặt nhìn trăng lướt qua ngọn cau. Cửa những ngôi nhà đã bắt đầu khép lại. Chỉ còn loáng thoáng những cánh cửa sổ bật ra để ánh trăng soi rõ từng thanh song cửa mọt. Lắng tai nghe thật kỹ có tiếng kẽo kẹt của lũ mọt tỉ mỉ đục gỗ.

Mụ nhớ đôi bàn tay nắm lấy tay mình trong bóng đêm. Nhắm mắt lại là có thể cảm nhận được hơi nóng lan dần vào ngực, tận sâu bên trong. Lạ. Lâu lắm mụ mới có cảm giác ấy. Những gã đàn ông cởi trần mồ hôi bóng loáng khiến mụ thấy rợn người…

Xoay xoay cổ tay tròn lẳn, tiếng chạm nhau leng keng của những chiếc vòng bạc khiến đôi chân mụ muốn nhún nhảy. Đôi bàn chân thon nhỏ chạm khẽ, rung lên từng nhịp. Những ngọn nến bập bùng, bập bùng. Giọng ả đào vang lên trầm bổng, thi thoảng lại có tiếng huýt gió nghe rùng rùng. Tất cả như chỉ để làm cho mụ xoay tít như đang được biểu diễn trước hàng trăm cặp mắt ngưỡng mộ đang ở giữa lằn ranh của sự hiện hữu và lụi tàn, của bóng tối và ánh sáng kia.

Những tàn nến rơi xuống, tắt xèo trên mặt thềm rêu phủ. Mụ nằm trên đám rêu, nhớp nhúa và trơn trượt. Mái tóc xổ tung phủ lên mặt. Đôi mắt mụ nhắm nghiền…

Tiếng bước chân chầm chậm trên từng bậc thềm. Con mèo đen "ngoao" lên một tiếng dài rồi nhảy qua người mụ, chạy biến ra phía những ngôi mộ hoang. Bóng người sập xuống, đè lên ngực. Đau tức. Mụ chỉ kịp tru lên một tiếng ngoa ngoắt rồi im bặt. Đôi bàn tay đanh chắc, siết cổ tay mụ lạnh ngắt. Mụ nhớ đến đôi bàn tay bên ngôi mộ hoang. Đôi mắt mụ mở ra, chỉ kịp thấy cái đầu bóng nhẫy cúi sát mặt, nồng nặc hơi rượu. Thoáng thấy hình ảnh những tấm lưng to bè trong ngôi nhà đổ.

 Trăng khuất vào mây. Tối sẫm. Thân thể mụ trắng nhễ nhượi. Tiếng kẽo kẹt của lũ mọt trên song cửa của ngôi nhà đã tắt sáng đang trôi… Mụ thả lỏng người, trôi theo từng nhịp của thứ âm thanh ấy. Một tiếng người trong gió gần nhưng lạnh. Tay mụ dại đi. Mụ nằm phơi mình dưới ánh nến chỉ còn leo lét cháy.

*

Tin mụ có chửa lan khắp xóm, làng. Người ta thấy mụ hay ra ngoài nghĩa địa mỗi chiều. Thơ thẩn. Mụ mua nhiều bánh trái, bỏ trong chiếc làn mây. Khi chiều tắt nắng, người ta lại thấy mụ xách chiếc làn không đi về. Sớm ra, bánh trái đầy trên ngôi mộ cạnh những lùm cây ké dại. Người trong xóm bảo nhau mụ có chửa với ma.

Mụ cười, ôm bụng chửa đi khắp làng trước đôi mắt tò mò lẫn kinh hãi. Những người đàn bà che nón nửa mặt, liếc mắt nhìn mụ. Những gã đàn ông cười nhiễu nhượi. Đôi mắt giấu sau chén rượu vừa như khinh bỉ, vừa như thèm khát. Mụ cúi mặt, lùi lũi bước. Con đường dày những viên sỏi trắng lổn nhổn. Tiếng lạo xạo cô đơn đập vào từng mảng tường nhà tróc lở. Những cánh cổng đóng im lìm. Người ta không nghĩ có kẻ nào dám cả gan làm cho mụ có chửa. Không ai nghĩ đó là người. Nhất định là ma! Chỉ có ma mới dám cười với mụ, mới dám chạm vào người mụ.

Đêm không trăng. Mụ chờ Bóng đen. Bước chân nhẹ như chân mèo hoang.

 - Bà có thức gì không? Tôi đói.

- Tôi có thai rồi!

- Vậy à? Bao lâu rồi?

- Mấy tháng thôi…

- Ông về chung nhà với tôi! Được không? Tôi chỉ ở có mỗi mình. Nhé?

Mụ ngẩng lên. Chỉ thấy phía trước mắt là bóng tối. Đêm lạnh. Mụ sẽ sinh con, sẽ chờ đợi, sẽ nuôi nó lớn lên. Mụ được làm mẹ như bao người khác. Và quan trọng hơn, mụ thấy mình được yêu. Mụ ôm bụng nằm mê trên chiếc chiếu giữa nhà. Ngọn nến trên bàn cháy rụi, khô, đanh lại.

*

Mụ chuẩn bị cho kỳ sinh nở, chẳng thiếu thứ gì, gọn gàng trong chiếc làn mây. Những ngọn nến được thắp đầy trong nhà, ngoài nghĩa địa. Như những vì sao sa. Những gương mặt với hai màu trắng đen kia sẽ nhìn thấy mụ sinh nở. Những đôi cánh tay rệu rã, khều khào kia sẽ nâng mụ lên, giúp con mụ chào đời. Mụ cắn chặt môi, bật máu. Tiếng khóc của đứa trẻ làm cho cả xóm Đông đêm ấy không ngủ. Họ lặng người. Nín thở. Những cánh cửa sổ khép hờ. Những đôi bàn chân của những người đàn bà trực chạy. Rồi lại dừng sau cánh cửa. Đêm ấy xóm Đông im lặng. Những đôi mắt mệt mỏi. Tiếng đập rộn trên những đôi ngực mỏng. Họ nhớ tới kỳ sinh nở của chính mình. Vật vã và đớn đau đến kiệt cùng.

Im lặng…

Mụ ôm con ngồi ngoài hiên. Đêm không trăng. Tiếng ru con ơ hời trong gió.

- Đứa bé xinh quá! Bà đặt tên cho nó chưa?

- Ông nghĩ đi. Nghĩ cho nó một cái tên để mà còn gọi.

- Sao bà không tự đặt tên cho nó?

- Tên tôi đặt người ta sẽ không gọi. Họ cũng không gọi tên tôi bao giờ.

- Tôi cũng chẳng có tên.

Mụ nhìn vào Bóng đen:

- Nhưng chúng ta cũng là người…

Trăng lên. Bóng đen đi về phía lùm ké dại tua tủa gai. Mụ đứng lặng.  Những quả ké trong tay, bầm máu.

*

Mưa! Mưa như có bao nhiêu nước từ trên trời trút hết xuống. Khu nghĩa địa bắt đầu ngập. Nước lênh láng. Trăm thứ rác rưởi nổi lềnh phềnh. Chiếc loa phát thanh oang oang thông báo lệnh di dời xóm ven khu nghĩa địa khẩn cấp vì nguy cơ ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh rất cao. Những xô chậu, gồng gánh, ngụp trong nước đen ngòm. Mụ nhất quyết không đi.

Mụ ôm con chạy ra ngôi mộ hoang, không còn nhìn thấy những lùm ké dại. Tất cả đã chìm trong màu đen sũng của bùn sình và rác rưởi. Mụ gào lên. Tiếng đứa trẻ khóc ré. Những ánh mắt hoang hoải trên gương mặt với hai màu đen trắng trên những tấm bia như giục mụ chạy đi. Tiếng bước chân người bên kia ìa oạp trong nước.

 Đêm xuống nhanh. Một bàn tay túm áo mụ. Mụ giằng tay ra. Khuôn mặt nhằng nhịt những đường sẹo chạy dài kéo sụp một bên mắt. Con mắt còn lại trắng nhợ... Mụ bị bế thốc chạy trong nước rồi được đưa lên chiếc xe chở người di tản.

Mụ nhớ đến cái đêm nhễ nhại trên bậc thềm đầy rêu. Ánh nến và ánh trăng mờ ảo. Mụ gào lên, đôi bàn tay chới với. Đôi mắt đỏ lòe. Bóng đen chìm dần trong cơn mưa và nước lũ đang dâng…

*

Mụ cào tay lên cỏ, xước máu. Chỉ thấy tấm bia đá lởm khởm khắc dòng tên vỏn vẹn "Nhân".

Mụ khóc. Nước mắt chỉ vừa đủ ươn ướt những cọng mi thưa. Khản giọng gào: Nhân! Nhân!

Người làng bảo Nhân là chữ do một người mang xác gã mặt quỷ đi chôn tự khắc lên mảnh gạch làm bia mộ sau khi vùi xác gã. Khi gã chết đi, người ta mới nghĩ đến gã cũng là con người, cũng cần một cái tên. Vậy là họ khắc "Nhân" trên bia mộ cho gã. Nhân là người.

Mụ ôm con. Sương buông buốt ngực. Đôi bàn tay ấp trên cỏ nhôm nham, xước máu.

Mụ ngửa mặt nhìn trời. Những ngôi sao bắt đầu lóng lánh sáng. Đôi mắt mụ ánh lên. Con có tên rồi. Nhân!

Truyện ngắn của Dương Giao Linh
.
.