Người của làng

Thứ Sáu, 09/02/2018, 08:43
Cái Thơ để nguyên quần áo đồng phục ở trường hớt hải: "Cây đa đầu làng sắp bị người ta chặt rồi". Tôi bảo nó: "Ai cho chặt cây đa?". Nó bảo: "Bố tao đi từ nãy". "Thế bố mày cũng đi chặt cây đa à?". Nó cúi đầu: "Người ta trả tiền…"...

Tôi không sinh ra ở làng. Nhưng tôi lớn lên ở làng. Làng tôi nằm trong vùng đảo bao quanh là đê chắn sóng. Cả vùng như một cái lòng chảo lớn, thấp hơn mực nước biển. Tục làng truyền, xưa kia đây là một vùng đảo hoang vắng không có sự sống. Rồi những người xứ kinh thành Thăng Long về đây quai đê, lấn biển, lập lên thành làng xóm.

Sau này những người dân trong vùng gọi họ là bảy vị Tiên Công. Làng nằm giữa cánh đồng rộng thênh thang. Nhà gần ruộng, chỉ bước ra là tới. Con sông chảy quanh làng là nguồn sống, là người bạn và cũng là nơi lưu giữ những kỷ niệm buồn vui của chúng tôi. Làng tôi nhiều cầu. Cầu làm bằng bê tông, bằng những mảnh ván, những thân cây tre già ghép lại với nhau.

Có những cây cầu tuổi đời còn nhiều gấp mấy lần tuổi tôi. Những con mương trong làng nhỏ, chằng chịt nối nhau. Chúng cứ như những ngón tay vươn dài vào cánh đồng, vào từng nhà bằng những cầu ao nhỏ, gắn chặt với đời sống của người ở làng.

Bọn trẻ chúng tôi biết bơi từ ngày thơ bé. Học bơi là một cách bảo vệ mình và cũng là một trò chơi không thể thiếu của những đứa trẻ ở làng. Chúng tôi tập bơi bằng chậu thau, bằng cây chuối… nói chung là bằng những gì có thể giúp nổi lên mặt nước. Trước khi học bơi, cái Thơ vạch áo tôi lên, cho chuồn chuồn ngô cắn rốn. Tôi khóc. Nó cười. Thơ là con chú Thìn. Tính nó như con trai. Tôi cũng coi nó như một thằng con trai.

 Gia đình tôi chuyển về làng từ ngày ông bà nội mất. Bố tôi về sống trên đất lạ. Từ ấy làng thành quê hương của anh chị em tôi. Những người trong làng là họ hàng của mẹ tôi. Họ quý chúng tôi như con cháu trong nhà. Mẹ bảo làng này trước kia người ta toàn gọi là xóm ngụ cư. Tôi không hiểu, chỉ biết những người ở làng kị, không nhắc đến.

Gia đình tôi chuyển về làng ở trong ngôi nhà cũ của ông bà ngoại. Ông tôi kể chuyện rất hay. Tôi thường gối đầu lên tay mình nằm cạnh ông để nghe ông kể chuyện hằng đêm trong những ngày ông ở lại nhà. Trong ánh sáng của ngọn đèn dầu phập phù, những câu chuyện về công nhân vùng Mỏ, về cuộc sống ngày xưa như thước phim quay chậm về hình ảnh những năm tháng ấy.

Tôi thấy mình được theo ông lên tận những ngọn đồi cao tít, đi trong những đường giao thông hào dài hàng trăm cây số trong lòng đồi. Được nhìn thấy những gương mặt sạm đen trong lò than sâu, những nụ cười và cả những giọt nước mắt. Tiếng súng, tiếng bom, tiếng thét vùng dậy của hàng trăm công nhân vùng Mỏ... Tôi nằm ngửa giữa cánh đồng nghĩ nếu mình sống trong những năm tháng ấy thì mình có là một em bé liên lạc can đảm không? Hay tôi chỉ là một em bé bình thường sống nơi làng quê yên bình của tôi. Như bây giờ…

 Ông bảo, làm người quân tử là vừa phải có khí chất, lại vừa phải có tình. Khí chất là cách mình sống cho quê hương, cho Tổ quốc. Còn cái tình là ở trong tâm hồn. Phải có một tâm hồn đẹp mới nên người. Ông quý sách. Ông dành những cuốn sách gom cả đời ấy lại cho tôi trong một chiếc hòm gỗ đã mọt lỗ chỗ.

Ông tôi được chôn cất ở làng. Bố tôi bảo, cả đời ông đi nhiều nhưng khi mất vẫn muốn về nằm lại trên đất quê hương. Tôi biết, bố đang nói cả phần mình. Bố rời quê lâu lắm, từ ngày mẹ sinh tôi. Cũng chỉ vì quê nghèo quá, không có đất để làm ruộng. Về đây, thấy đất là bố ham, làm như thể để sức vóc khỏi phí. Bố coi đây là quê và bố cũng muốn tôi coi đây là quê. Và tôi đã sống là người ở làng, coi đây là quê. Cả đời sẽ là như thế!

*

Tôi không thích buổi chiều mùa đông. Khi cứ mở mắt ra là thấy cánh đồng trơ gốc rạ khô mục sau mỗi vụ mùa. Đâu đó người ta đốt đồng, loang ra một màu khói, trắng nghẹt. Những con vịt lạch bạch trong cái mương cạn nước, bì bọp cái mỏ vào bờ cỏ đã úa, nhoi ra chỉ toàn sỏi.

Tắt qua cánh đồng là một con đường nhỏ dẫn thẳng vào cổng làng. Cổng làng tôi có từ bao giờ tôi không biết. Chỉ biết gốc cây đa đầu làng có một cái miếu nhỏ là nơi bọn chúng tôi tụ họp nhau mỗi chiều tan học. Những chiếc rễ đâm vào đất cũng to bằng một vòng tay ôm. Nghe đồn đó là cây đa rất thiêng… Đó là cây đa mang linh hồn của người con gái xinh đẹp và gan dạ của làng tôi. Câu chuyện về cô vẫn được các cụ bà trong làng nhắc trong lúc bỏm bẻm cơi trầu…

Cô Tân bị giặc bắt năm mười sáu tuổi, chúng bắn rồi treo cô lên gốc đa. Cả làng chôn cô ngay dưới gốc đa và lập miếu thờ. Hằng năm, gần ngày giỗ cô, người ta vẫn thấy cây đa đầu làng không có gió mà vẫn xôn xao lá. Mẹ tôi bảo ấy là hồn cô Tân về. Người làng ai đi làm ăn xa qua cây đa đều có lễ xin. Khi về lại có lễ tạ. Còn những người đi mà không về thì sẽ bị chết nơi đất khách quê người. Tôi không biết điều ấy có đúng không. Chỉ biết người làng tôi không bao giờ bỏ làng mà đi.

*

Làng tôi vui nhất vào mùa gặt. Cả cánh đồng cứ rộ lên. Trăm thứ âm thanh va vào nhau. Tất nhiên là có cả những giọt mồ hôi thầm lặng nhỏ xuống nơi những gốc lúa còm cõi kia. Người làng ra đồng từ tờ mờ sáng. Trưa lên bờ bỏ cơm ra ăn rồi lại làm cho tới tối mịt.

Minh họa: Lê Trí Dũng.

Lúa gặt xong gánh rạc chân lên đến chỗ tuốt. Đống lúa nhà nọ nối đống lúa nhà kia. Bác Tuất trưởng thôn, nhà cấy một mẫu ruộng, chỉ mình vợ bác và hai người gặt. Bác bận phải làm việc xã, việc làng. Ấy thế mà lúa nhà bác nặng hạt nhất. Ai cũng bảo vì bác mua được giống tốt hơn người làng. Bác chỉ cười.

Chờ tới tối mịt chú Thìn mới đánh máy tuốt lúa về. Chỗ ruộng của làng đã được chia địa bàn làm ăn nên không máy tuốt nào dám tới gần. Thế là cả làng cứ phải nhấp nhổm, ngóng ra ngóng vào chờ cái máy tuốt của đúng nhà chú Thìn. Chú Thìn là chồng của cô Hoa, là bố của cái Thơ, bạn tôi. Cô Hoa người Nghệ An, làm dâu làng tôi mấy năm mà không có con. Cô chấp nhận cho chú Thìn lấy vợ hai. Chú Thìn người cao to, mặt rỗ lỗ chỗ. Chú làm nghề tuốt lúa và có cả cái công nông chuyên chở thóc. Thỉnh thoảng chú vẫn cho chúng tôi nhờ khi học về.

- Cái nhà anh Thìn đến là lạ. Một anh chồng sống với hai người vợ và ba

đứa con gái của vợ hai mà chả bao giờ thấy to tiếng cãi vã.

Tiếng mấy bà ngồi chờ tuốt lúa trên bờ đê xen lẫn giọng cười rôm rả.

Dở chuyện thì cái máy của chú Thìn ùng ùng chạy tới. Ai cũng rối rít, tuốt cho nhà tôi trước. Đèn pin, đèn pha bật sáng cả một quãng. Hết ôm lúa này tới ôm lúa khác đun vào cửa máy, rơm ra rối thành từng bó phụt lên như người bắn pháo mà chẳng thấy thóc đâu. Đổ vào bao xách lên nhẹ bẫng. Ai cũng lắc đầu ngao ngán. Người này hỏi người kia. Nhà nào cũng thế. Năm nay mất mùa. Mang thóc về cứ như mang trấu. Mẹ tôi đổ ngay ra sân hong trong ánh điện hắt từ nhà ra, cày chân mình trong sân thóc thâm bầm như bị ngâm nước mà rủn gối, ngồi phệt xuống thềm nhà:

- Bao nhiêu là công lao chăm bón.

Bố kéo từng gàu nước lên khỏi miệng giếng, vốc lên mặt.

-Không được mùa cũng phải làm. Để lỡ mùa mang tội!

Mẹ thở dài:

- Trời đất này. Bão lũ thì đến bất thường, sâu bệnh thì liên miên. Chả biết

thế nào mà lần.

Tôi mân mê tay mình trên bộ lông mềm mượt màu vàng như hạt thóc của con mèo. Đôi mắt nó lim dim cuộn tròn trong đống bao vất lổn nhổn. Sớm mai mẹ lại dậy sớm ra đồng gieo hạt. Hạt rau cải cúc, cải thìa rắc đều trên những luống vun cao đã được rắc rơm mục sẵn. Rồi những vụ rau chẳng bán được, thành những luống hoa cải vàng rực. Chúng tôi đi dọc cánh đồng ven sông hoa cải rắc vàng dưới chân chỉ thấy những nhọc nhằn rơi vãi…

Cái Thơ bảo, sau này lớn lên nó sẽ làm nhà văn, sẽ viết về cánh đồng làng mình. Còn tôi chẳng có ước mơ gì. Chỉ thương người ở làng không làm thì ngủ không ngon, nghỉ tay một ngày là ruột nóng như thiêu như đốt. Thương đất ải. Thương những mùa lỡ vụ. Đã có lúc tôi nghĩ mình phải làm gì đó để thay đổi nếp nghĩ, cách sống của những người làng quê tôi. Nhưng những ý nghĩ chỉ vừa lóe lên đã rơi xuống những luống cày của bố tôi, rơi vào những dấu chân trần sâu lún nơi ruộng bùn của chính tôi, của cái Thơ…

*

Cánh đồng làng tôi cò bay thẳng cánh, vào lúc lúa đang thì cả cánh đồng rập rờn như dải lụa xanh mướt mát. Còn độ lúa vào mùa lại như một bức tranh nắng đổ màu rực rỡ. Tôi hay theo dì Lam ra đồng lội bờ ruộng, vạch cỏ bắt cua đồng. Nắng to cua chui vào cỏ lấp, chỉ cần lật cỏ lên là tóm được, bỏ vào chậu. Tối về qua nhà ngoại ăn bún riêu cua. Dì Lam lấy chồng muộn. Dì bảo ở nhà chăm bà, khi nào bà mất dì mới lấy chồng. Dì nhỏ nhắn, gò má cao, dáng người mỏng. Người làng bảo đàn bà mà cái dáng ấy thì khổ đến chết. Họ nói thế, chứ tôi biết đàn bà ở làng tôi tướng nào cũng khổ cả. Có ai sướng đâu. Nhìn mặt ai cũng chỉ thấy cái nhọc nhằn, khốn khổ. Cả đời chả biết đi đâu khỏi làng, khỏi xã.

Dì là giáo viên tiểu học. Ngoài thời gian trên lớp, dì còn viết truyện, viết thơ gửi đăng báo. Dì đọc thơ hay như ông ngoại. Dì Lam có một cuốn sổ bìa cứng màu xanh dùng để viết. Đêm nào tôi cũng thấy dì trở dậy bật đèn ngồi viết. Có lần dì mở sổ đọc cho tôi nghe một đoạn. Ngày ấy tôi cứ tưởng dì đọc truyện như ông ngoại đọc cho tôi nghe. Nhưng mãi sau này tôi mới biết đó là truyện dì viết. Dì Lam không yêu ai ngoài chú Tâm. Chú Tâm là giáo viên cắm bản, một năm mới về một lần. Bà ngoại biết điều ấy nên bà cấm. Bà bảo đời người đàn bà làm dâu không chồng muôn đời khổ. Đời bà đã thế nên bà không muốn dì Lam sống như thế.

Dì Lam đèo tôi đi học bằng chiếc xe mi ni màu xanh dương. Dọc đường dì kể cho tôi nghe một đoạn trong cuốn sổ tối qua dì viết. Tôi không nhớ rõ nội dung. Chỉ nhớ đó là một câu chuyện dài. Dài lắm... Cho tới tận khi dì Lam qua sông về làm dâu bên làng Quỳnh thì câu chuyện ấy vẫn còn dang dở. Dì Lam không lấy chú Tâm mà lấy chú Tính. Chú Tính là ông chủ xưởng đóng tàu, thuyền.

Đám rước dâu lúc tờ mờ sáng. Lệ làng thế. Không ai nhìn rõ mặt cô dâu xinh, xấu ra sao. Buồn hay là vui. Lễ nhà trai mang sang có trầu cau, đầu lợn, bánh trái, nước ngọt, được tết hoa đỏ. Dì nhét vào tay tôi tờ giấy gấp tư, bảo tôi mang ra bưu điện gửi cho dì. Tôi gửi thư. Bức thư đầy nước mắt mà dì thức đêm qua để viết gửi cho chú Tâm.

Ngày tiễn dì Lam sang nhà chồng là lần đầu tiên trong cuộc đời mình tôi thấy nơi ngực trái nhói đau. Cảm giác như mất mát một cái gì lớn lắm mà tôi không hiểu được. Tôi khi ấy đã là đứa con trai mười bốn tuổi. Tôi chạy ra bờ sông ngồi khóc. Tôi biết trong lòng dì chỉ có chú Tâm. Nhưng vì thương bà ngoại nên dì phải lấy chồng gần. Câu chuyện của dì vẫn còn dang dở. Có lẽ tôi chẳng được biết hồi kết truyện dì viết ra sao. Nhưng chuyện về cuộc đời dì thì tôi biết rõ…

Về làm dâu được một năm thì dì xách quần áo bỏ về làng. Bà ngoại hỏi thế nào dì cũng chỉ nói không muốn quay về cái nhà ấy nữa. Dì quỳ dưới chân bà ngoại khóc: "U tha tội cho con. Con không thể sống với những người ác độc ấy được. Xin u tha tội cho con". Nước mắt dì lăn trên khuôn mặt hốc hác. Những sợi tóc loăn xoăn bết vào đôi môi mím chặt. Bà ngoại chỉ quay mặt vào bếp.

Người ở làng xôn xao chuyện dì Lam bỏ chồng về nhà. Mỗi người thêm thắt vào một chút. Người bảo chồng dì có người đàn bà khác về đánh đập dì. Người lại bảo tại dì không biết đẻ nên bị gia đình nhà chồng đuổi về… Những lời thêm thắt ấy làm dì chỉ hai buổi dạy học rồi ở lì trong nhà. Chú Tính sang, dựng xe máy ở gốc bưởi trước nhà, nắm tóc dì lôi lên xe. Dì giằng ra được, ngã sấp mặt xuống đất. Nắm tóc đen trong tay chú rơi lẫn vào những cánh hoa bưởi trắng. Dì không về. Người ở làng bảo dì gàn. Tôi chẳng muốn nghe những lời bàn tán của mấy bà trong làng về chuyện của dì. Bà ngoại tôi cũng vì chuyện ấy mà buồn. Bà ốm mấy tháng không dậy được.

Những đêm trăng sáng không ngủ được, tôi chạy ra đồng be bờ tát cá. Dì Lam đi cấy trong đêm. Chắc dì cũng không ngủ được. Tôi hỏi: "Dì không sợ ma à?". Dì bảo: "Người chết không đáng sợ. Người sống mới đáng sợ". Tôi im lặng cúi đầu đi vòng qua những ô ruộng trũng tát cá. Thỉnh thoảng ngóc đầu lên nhìn cái bóng loang loáng trong ánh trăng bàng bạc còm cõi trên cánh đồng thông thênh, lặng ngắt. Lòng người đàn bà đi qua những đổ vỡ tĩnh lặng như những ngọn cỏ đêm… Tôi cúi mặt xuống chỉ thấy ánh trăng màu hổ phách sóng sánh trên mặt bùn loáng ướt.

*

Bác Tuất trưởng thôn đạp xe vòng quanh làng thông báo: "Có dự án đi qua đồng. Sáng mai mời bà con lên xã họp". Bác phát giấy có đóng dấu đỏ tròn xoe tới tận từng người trên đồng. Tôi được cử đọc to thông báo cho người làng.: "Căn cứ…, căn cứ… Quyết định phê duyệt dự án Cảng biển có diện tích…trên diện tích đất nông nghiệp thuộc thôn X, xã X…". Cánh đồng rộ lên. Ai cũng thắc mắc ruộng nhà mình có vào trong dự án không. Giá đền bù thế nào. Những cái đầu nhấp nhổm quanh hàng rào, dỏng tai nghe thông tin từ chiếc loa treo lủng lẳng trên cây cột điện. Quanh năm cúi mặt xuống bùn, móng chân, móng tay vàng quạch vì đất chua mặn. Vậy mà cứ hễ nói đến đi khỏi làng là sợ. Giờ thì tốt rồi. Dự án vào là được đền bù. Vừa có tiền lại vừa được ở lại làng.

Dự án về thật. Con đường tắt qua cánh đồng làng nối với dự án lấy đi nhiều diện tích ruộng cấy lúa. Nhà ai có đất vào thì lên xã nhận tiền đền bù. Cả trăm triệu. Mẹ tôi đi lấy tiền về cũng mừng ra mặt. Mấy đám giỗ sắp tới trong năm chắc không còn phải chạy vạy vay mượn nữa. Bố bần thần: "Hết đất thì lấy gì mà làm. Người nông dân mà không có đất thì sống bằng cái gì?". Mẹ hắt đi: "Ông chỉ lo không đâu. Đất ruộng bây giờ cũng có làm được gì đâu". Tiếng mẹ thở dài, lẫn vào tiếng gió đồng vun vút.

Tôi thương cánh đồng bị xẻ nửa, không còn một thảm dài mông mênh tít chân trời nữa. Cua cá sẽ đi đâu?

Cánh đồng bị chia năm xẻ bảy. Như lòng bàn tay đầy những vết xước. Còn những dòng mương kia như những ngón tay bị cắt lìa. Dì Lam bảo: "Giờ người ta tập trung đầu tư vào những vùng có diện tích nông nghiệp để chuyển đổi nền kinh tế sang công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nông nghiệp kinh tế thấp nên chẳng ai thèm quan tâm. Cứ nhìn phân bón là biết ngay. Toàn đồ giả! Đổ vào đất toàn chất độc hại!". Tôi hỏi: "Dì có thương cánh đồng không?". Dì bảo: "Đồng giờ đã như là chiếc áo vá. Có thương cũng thế thôi".

 Đêm đêm dì cũng không ngồi bật đèn viết nữa. Dì bảo đoạn kết trong truyện dì viết cũng buồn lắm. Có lẽ nó vận vào đời dì. Thế nên dì bỏ không viết truyện nữa.

Tôi lội ra cánh đồng. Cua với cá giờ bỏ đồng đi hết. Đồng giờ chẳng còn là nguồn sống cho vạn vật sinh sôi như trước nữa. Lúa còn không lên nổi thì cua, cá, ếch nhái làm sao sống được. Tôi nghe tiếng cát, đá đổ phía trước mặt. Từng đống như những nấm mồ nằm rải rác trên cánh đồng. Những mái nhà ngói nằm sát với khu công nghiệp. Người làng sẽ thở cùng làn khói, uống nguồn nước từ những cái ống nhựa chôn dưới đất dẫn về. Làng quê tôi sẽ được bê tông hóa, không còn lấm lem bùn đất?

*

- Dì Lam mày bỏ làng đi rồi!

Mẹ tôi hét lên, ngồi phệt xuống ôm khăn tay khóc. Tôi chạy ra bến sông. Nhìn sang bên kia chỉ thấy một màu xám ngắt của những dãy núi đá chồng lên nhau. Dì Lam là người đầu tiên dám bỏ làng đi. Tôi ôm cuốn sổ về như ôm bao nỗi buồn tủi, cô đơn của dì... Có những khi tôi thả nó vào cánh đồng thông thênh trong ký ức của tôi. Thả vào những hạt lúa vàng mẩy khi đã rê xong ngoài đường làng.

Chuyện dì bỏ làng đi như một cơn sóng ngầm dữ dội nơi làng quê tôi. Bà tôi không chịu qua được cú sốc ấy nên ốm liệt giường. Được một năm thì bà mất. Bà được đưa đi hỏa thiêu vì đất nghĩa trang cũng trong khu quy hoạch dự án. Điều này chưa từng có ở làng tôi. Tro cốt của bà được gửi lên chùa. Mẹ tôi bảo sau này cũng đưa ông ngoại lên cùng với bà. Tôi ngước mắt lên, nước mắt chảy xuống. Đám mây đen lởn vởn bay về phía làng.

 Dự án vào. Con đường qua cánh đồng dài tít tắp, rộng bằng mấy sào ruộng. Xe chở đất, chở đá, chở xi măng kéo về nườm nượp. Máy ủi, máy xúc đêm ngày làm việc. Đất rung chuyển dưới chân như sạt lở. Những thửa ruộng xưa kia trũng ngập trong bùn thì nay được đổ cao tới ngang hông nhà ngói. Đường vào làng giờ chỉ là con đường nhỏ hẹp ven kênh đã hút cạn khô nước. Những vảy bùn khô, cong vểnh lên. Nhìn xa dòng mương như con quái vật trườn mình.

 Bố mẹ tôi dùng tiền bồi thường ruộng mua một đôi bò. Bố chặt tre làm chuồng cho chúng. Tôi nhận phần chăn bò lúc đi học về nhưng bố không đồng ý. Bố bảo: "Anh, chị mày đã học ít thì mày phải học thay cả phần của chúng nó nữa".

Tôi biết tôi là niềm hy vọng của bố. Niềm hy vọng vào sự đổi đời nhờ con chữ nơi làng quê nghèo túng này. Người ở làng nghèo đến cả tìm một cuốn sách hay để đọc cũng không có. Những lúc rảnh rỗi tôi chả biết làm gì ngoài thả mình ngoài cánh đồng. Nhìn những cái dáng người lom khom bé nhỏ cày cuốc. Cả đời bùn bám lên mặt, hạt thóc, hạt gạo đều dựa vào sức mình, cầu mong thời tiết mưa thuận gió hòa. Chỉ biết như thế. Chẳng còn trông mong vào đâu được. Năm nào mất mùa thì thóc gạo đắt. Được mùa thì thóc gạo rẻ.

Làm ra hạt gạo cơ cực là thế nhưng giá trị hạt gạo thì lại phụ thuộc vào trăm thứ. Người ở làng tôi dù đói khổ là thế mà bao nhiêu năm qua vẫn không bỏ làng. Vậy mà dì Lam tôi dám bỏ làng mà đi. Tôi mang nỗi buồn về làng, về những người đàn bà nơi làng quê tôi trong trái tim của thằng con trai chưa trưởng thành. Để nuôi một ước mơ. Ước mơ rời khỏi làng. Rời xa những nỗi buồn đeo đẳng trong tôi…

Cái Thơ để nguyên quần áo đồng phục ở trường hớt hải: "Cây đa đầu làng sắp bị người ta chặt rồi". Tôi bảo nó: "Ai cho chặt cây đa?". Nó bảo: "Bố tao đi từ nãy". "Thế bố mày cũng đi chặt cây đa à?". Nó cúi đầu: "Người ta trả tiền…". Tôi nhảy lên xe, đạp theo nó. Cây đa là linh hồn của làng tôi. Từ trước tới nay người ở làng vẫn coi đó là điều linh thiêng, cấm kị. Không ai được động vào. Ai cũng biết rõ điều này. Các cụ trong làng sẽ không đời nào cho chặt cây đa. Trừ khi...

Dáng cái Thơ lom khom gồng mình đạp trên con đường dự án đổ đất đá ngổn ngang. Nó cách tôi chỉ vài mét. Tôi vẫn thấy cái bóng áo trắng và đuôi khăn quàng đỏ của nó bay qua vai. Nó đã lớn. Đã là đội viên. Mái tóc dày ngang vai ra dáng một đứa con gái, chứ không giống một thằng con trai như ngày bé nữa. Tôi trộm nghĩ, nếu nó không lớn lên ở làng chắc nó sẽ phổng phao, trắng trẻo như những đứa con gái khác. Bỗng, xe Thơ lao xuống dốc. Tôi nghe thấy tiếng hét của nó. Rồi tiếng hét của tôi. Tôi thấy màu khăn quàng của nó lẫn vào vũng máu chảy ra từ trên đầu.

- Thơ ơi!

Đáp lại tôi chỉ còn có gió. Gió mồ côi lạc lõng trên cánh đồng tắc nghẹt. Về

đâu?

Người làng kéo đến lôi nó lên. Cái Thơ không cười với tôi nữa dù tôi đã nắm lấy tay nó, lay rất mạnh. Tôi nhớ mãi đến khi bố lôi tôi ra ngoài thì tôi mới buông tay nó ra. Chú Thìn chạy đến, tay lăm lăm dao rựa. Chú múa một vòng, vừa chạy vừa khóc. Nước mũi lẫn nước mắt, lẫn cả bụi đất đỏ.

Người làng đưa Thơ ra cạnh sông, cách làng tôi chừng một cây số. Đám tang của đứa con gái đã khiến không khí trong làng tôi lặng ngắt suốt mấy ngày. Ngoài tiếng máy xúc, tiếng xe chạy trên đường của dự án thì chỉ còn tiếng thở dài. Tôi không biết sau đó người làng tôi đã đấu tranh giữ lại cây đa như thế nào. Chỉ biết tất cả những chiếc máy chạm vào thân cây đa đều bị hỏng. Người làng thắp hương nghi ngút. Khói quẩn trong lòng cây đa trắng nghẹt. Tôi vẫn tin cây đa có linh hồn. Linh hồn của cô gái xinh đẹp và gan dạ nhất làng tôi. Linh hồn của cả làng tôi.

Những hạt bụi mù trời nơi cánh đồng tuổi thơ của chúng tôi. Có hạt bụi nào đang lấp lánh kia không? Để tôi nhận ra gương mặt người ở làng, gương của mặt tôi, của Thơ, gương mặt của cánh đồng…

"Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi

Để một mai tôi về làm cát bụi

Ôi cát bụi mệt nhoài tiếng động nào gõ nhịp khôn nguôi…" (Trịnh Công Sơn)

Tôi mang nỗi buồn về những con người lam lũ nơi làng quê tôi trong trái tim chằng chịt những vết xước ký ức. Để chỉ nuôi một ước mơ thôi. Ước mơ về cánh đồng thông thênh nắng. Nhắm mắt, thấy gió đồng ngào ngạt thơm hương lúa đang thì con gái… 
Truyện ngắn của Dương Giao Linh
.
.