Truyện ngắn Đỗ Tiến Thụy: Một nét duyên ngầm

Thứ Năm, 28/07/2022, 16:07

Khi mặc thường phục, Đỗ Tiến Thụy trông giống một anh lính phục viên hơn là một nhà văn. Thụy không làm dáng nghệ sĩ, cũng không la đà trong các nhóm văn nghệ sa lông. Nơi cư trú của anh là vùng rừng ruộng, là chiếu rượu quê. Có cảm giác, Thụy chỉ ngồi với ai khi cảm nhận được ở đó chút gì gần gụi, ấm áp tình đời.

Tiếp xúc mới thấy, Thụy rất ghét quan hệ đãi bôi, thù tạc, xa lạ với những lời mây gió. Trong vỏ bọc của "chú cua đồng vụng dại", gã trai quê nhả khói thuốc mịt mù giữa chênh chao đồng đất, mắt ánh lên màu rừng ruộng xa xăm, giấu đi một nét kiêu ngầm...

Đỗ Tiến Thụy bén duyên văn chương khá muộn. Tập truyện ngắn đầu tay "Gió đồng se sắt" xuất bản khi anh đã bước sang tuổi ba nhăm. Thực tiễn cho thấy, trên hành trình văn học, mỗi người viết sẽ mang theo những "câu chuyện tâm thức" của riêng mình.

Với Đỗ Tiến Thụy, có thể khẳng định, văn chương với anh trước hết là vấn đề thân phận. Sức hấp dẫn trong truyện ngắn của anh, một phần lớn bắt nguồn từ điều đó. Đọc truyện ngắn Đỗ Tiến Thụy, thấy xuất hiện ba "vùng thẩm mỹ", cũng là ba câu chuyện tâm thức của anh, khi riêng lẻ, khi xen cài xoắn vặn: nông thôn, Tây Nguyên và người lính.

anh thuy 2.jpg -0

Trong tâm thế của một người quê, khi viết về nông thôn, Đỗ Tiến Thụy thường chọn những "vùng đau" của làng quê Việt thời hiện đại, hoặc của một thời quá khứ chưa xa. Những khốn khó lao lung, vay trả đời người, tranh cướp đất đai, lìa làng bỏ xóm, những ghen ghét đố kỵ, định kiến cố hữu, bấp bênh phận người, tóm lại, dù không đẩy lên đến mức dị biệt, song về cơ bản đều là những câu chuyện thấm đẫm xót xa. Không phải ngẫu nhiên, khi đọc truyện ngắn Đỗ Tiến Thụy, thường có cảm giác những chiếc vòi bạch tuộc đang bóp chặt tim mình.

"Họ nhà Vòn" có thể xem là câu chuyện tiêu biểu cho nỗi đau đớn tột cùng của phận người quê (cái nhan đề ở đây như gợi ra câu chuyện về loài "voọc", "vượn", những phiên bản thấp hơn của con người). Vì không muốn chồng bị giết, Muôn phải lộ mặt và bị đám lính Tây cưỡng hiếp. Trớ trêu thay, Muôn lại bị chính gã chồng hèn hạ sỉ nhục, ruồng rẫy, bị cộng đồng dồn đuổi vào bước đường cùng.

Khác với trong "Mộng thám hoa" (nhân vật người trí thức, người tài bị bủa vây bởi sự ganh ghét, đố kỵ, khinh khi), ở đây, người phụ nữ nông thôn hết lòng hy sinh vì người thân bị bức tử giữa vòng vây định kiến, ích kỷ, cả sự đốn mạt của người thân, họ hàng, của người đời. Một lần bị cưỡng hiếp, một đời bị truy đuổi, đường cùng, Muôn giải thoát đời mình bằng cái chết, nhưng chết rồi cũng chẳng yên thân.

Nghịch cảnh ở đây là, "bà Muôn sống bằng một cuộc đời đau rất thật, mà chết lại bằng ba ngôi mộ giả", những ngôi mộ không phải để thờ bà, mà là để thờ tự lòng ích kỷ, tự mãn, háo danh, thờ tự sự bất nhân thất đức. Kẻ đáng muôn chết, lão Vòn, cuối cùng rồi cũng trút ra được những uẩn khúc dằn vặt suốt đời mình. Kết truyện, do thế, dầu tột cùng đau xót, vẫn ánh lên ý nghĩa nhân văn và tỉnh thức.

Truyện ngắn Đỗ Tiến Thụy không chỉ có niềm đau, mà luôn chạm khắc sâu thẳm tình người. Nếu "Họ nhà Vòn" buồn đau chua xót thì "Gió đồng se sắt" lại là câu chuyện buồn thương. Thân sống tủi nhục và cái chết tức tưởi của bà Tình trong đây gợi ra tứ truyện: sống bình thường sao khốn khó lao lung đến thế, sống tử tế còn khó hơn gấp bội phần.

Trong các truyện ngắn về nông thôn, Đỗ Tiến Thụy rất chú ý khai thác không gian quê để triển khai tứ truyện. Với anh, ao làng là nơi nhen lên lửa ấm tình đời nhưng cũng là mồ chôn nhân cách. Sóng ao làng tuy không lớn, nhưng lại là con sóng vọng động từ đáy nhân tâm (Sóng ao làng). Nếu "Gió đồng se sắt" là bi kịch người nông dân không được sống và không sống được trên mảnh đất của mình thì "Vết thương thành thị" lại là nhát búa quật thẳng vào người dân quê di cư về đô thị để kiếm tìm miếng cơm manh áo.

Quan sát một chút, có thể nhận ra, cứ đọc vài truyện ngắn của Đỗ Tiến Thụy lại thấy anh nhắc đến Tây Nguyên một lần. Ám ảnh Tây Nguyên khi phảng phất như "vào Tây Nguyên làm ăn" (Gió đồng se sắt), "đóng quân ở Tây Nguyên", "từ Tây Nguyên về" ("Nơi không có sóng Xì phôn", "Sang mùa"), khi lại ngập tràn không gian, thời gian, con người, cảnh vật (Bahna, Xơ đăng, Gia Rai, Đăkbla, Kip, Lưk, "cỏ trắng xác xơ, trời trong veo thăm thẳm vô cùng"…).

Trong các câu chuyện tâm thức về Tây Nguyên, "Người trong núi" là một câu chuyện xúc động, đủ đầy về tình người cao đẹp được thể hiện qua những chi tiết tự nhiên, dung dị đến bất ngờ. Xa lạ với những bài học giáo điều đạo đức, chuyện của Kip vừa buồn thương, vừa trào dâng xúc cảm nhân văn mãnh liệt. Nuôi đứa con do người phụ nữ mình thương bị hiếp đẻ ra (rồi lấy cô làm vợ), Kip coi Lưk như con ruột, cuối cùng lại trả Lưk về cho cha nó, cho dù khởi đầu là một người cha khốn nạn. Sự ân thưởng của đời người là cái nhẹ nhõm trong tâm tư mà không phải ai cũng dứt ra và làm được, vậy mà Kip đã làm điều này một cách tự nhiên, không toan tính. Cái thiện lương lấp lánh đằng sau vẻ xù xì thô nhám của nhân vật dường như đã lan tỏa một nguồn sống thiện lành trong trái tim người đọc.

anh sach.jpg -0
Bìa tập truyện ngắn “Vết thương thành thị'' của Đỗ Tiến Thụy.

Viết về người lính, Đỗ Tiến Thụy miêu tả không nhiều hình ảnh chiến tranh mà chú tâm vào thân phận người lính đằng sau chiến cuộc. Người lính của anh không còn ánh hào quang, mà bình dị đời thường với bao khúc quanh số phận, có khi bị lãng quên. Đó là một chàng Tương chân thật đến ngây ngô trong "Nơi không có sóng Xì phôn". Sự giản dị, tốt bụng, trong sáng của anh trở nên xa lạ trong đời sống hiện đại quay cuồng, nơi mà tình yêu được xem như trò đùa, và sự giả trá thớ lợ lên ngôi. Đó là Thuân, chàng Đại úy tốt bụng, trong sáng, thủy chung nhưng cô độc, lạc loài trong "Gió đồng se sắt". Đó là anh lính đặc công xuất ngũ, nghĩa hiệp, nghĩa tình nhưng luôn phải trả giá đắt cho sự tử tế của mình (người yêu bị cưỡng hiếp, người thân bị làm nhục), để rồi cuối cùng thảm bại ê chề, tủi nhục ôm mặt vô vọng trở về quê với vết thương "âm ỉ đau thắt nơi ngực trái" (Vết thương thành thị).

Trên một ý nghĩa nào đó, có thể nói, truyện ngắn Đỗ Tiến Thụy là sự hiện thực hóa những trải nghiệm cá nhân của một tâm hồn nức nở. Thế giới truyện của anh, dù đa dạng thế nào vẫn xoay quanh cái tứ: sống thì khốn khó lao lung, chết lại giản đơn vô nghĩa chừng nào. Trớ trêu cuộc người là ở chỗ, muốn sống khỏe thì phải thay đổi mình theo chiều hướng xấu đi, còn muốn giữ nhân phẩm của mình thì phải khổ nhục, thậm chí là phải chết ("Họ nhà Vòn", "Gió đồng se sắt").

Trong thế giới truyện Đỗ Tiến Thụy, kẻ có chức quyền đa phần tha hóa, người nông dân, anh lính thiện lương thì suốt đời nhếch nhác, đáng thương ("Sóng ao làng", "Người trong núi"). Cái kết của "Sang mùa" có thể xem như một tưởng thưởng cho cả một mùa cổ tích vô hậu của nhà văn. Trong đau đớn chất chồng và cảm thông vô tận, Sâm được tác thành với Bính, vợ của Lợi, người bạn chiến đấu với anh đã hi sinh. Người tác thành mối lương duyên này không ai khác mà chính là mẹ chồng Bính, mẹ đẻ của Lợi. Cuối cùng, dường như họ đã có được đứa con mình hằng mong mỏi.

Viết về người phụ nữ, ngòi bút Đỗ Tiến Thụy hướng tới những phận đời trôi dạt, lênh đênh: tình yêu đứt đoạn, vợ chồng chia lìa, tủi nhục phận làm thuê, bị cưỡng hiếp, ruồng rẫy, bị bóp nghẹt bởi định kiến, bởi lòng vị kỷ. Nhẫn nhục, vị tha, hi sinh vì chồng con, vì người yêu, song cái mà họ nhận được đều là khổ đau bất hạnh. Điều đáng chú ý là, viết về những vùng đau, ngòi bút Đỗ Tiến Thụy tuyệt nhiên không hằn học, mà chỉ khơi gợi nỗi xót xa để bạn đọc cùng suy tư, nghiền ngẫm. Truyện ngắn của anh, do thế, luôn mang một dư vị sâu xa về nỗi niềm nhân tâm thế sự.

Có thể khẳng định, sức hấp dẫn của truyện ngắn Đỗ Tiến Thụy không chỉ ở câu chuyện về những khuất khúc phận người, mà còn bởi tay nghề, lối viết, cách tổ chức câu chuyện nhuần nhị, tự nhiên, kín kẽ. Ngôn ngữ truyện ngắn Đỗ Tiến Thụy là ngôn ngữ rừng ruộng, chọn lọc, tự nhiên. Anh ưa dùng các câu văn ngắn, hoạt, từ ngữ luôn gọi đúng tên sự thể.

Đọc Đỗ Tiến Thụy, thấy tác giả rất khéo xen cài, thay đổi các điểm nhìn trần thuật và đặc biệt là cách nhà văn đồng hiện quá khứ - hiện tại khiến câu chuyện luôn hiện ra qua nhiều lớp lang hấp dẫn. Chẳng hạn, trong "Sóng ao làng", nhà văn đặt nhân vật chính (Thuyên) trong tương quan với các điểm nhìn mang đặc tính xã hội - thẩm mỹ khác nhau (Thuân - người lính trở về với bao sóng gió tâm trạng; bà mẹ Thuân, con người thật thà, cả tin, cả nghĩ; Quận, kẻ ti tiện, mất nhân tính, cũng là tình địch và bạn cũ), để từ đó, nhân vật hiện ra đa cạnh, đa chiều.

Dù xuất hiện trong trạng huống hay ngôi kể nào thì hình tượng người trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Tiến Thụy cũng phảng phất bóng hình một anh chàng lêu khêu, "eo dây nhăng nhẳng", một người lính, một người quê giàu lòng trắc ẩn. Tình thế trần thuật dễ lấy đi nước mắt, song người trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Tiến Thụy không chú tâm ngoại hiện hóa cái nức nở tâm hồn. Cái tôi thứ hai của nhà văn dường như chỉ ẩn khuất xa xăm, nhường lại cho nhân vật vai trò tự nói về mình cũng như về chính cái cõi đời mà nó đang chung sống.

Truyện ngắn Đỗ Tiến Thụy không gây sang chấn cho văn học Việt Nam đương đại bởi các chủ đề nóng bỏng hay hình thức kỹ thuật tân kỳ, song luôn có một sức hấp dẫn riêng, một nét kiêu ngầm. Có thể nói, Đỗ Tiến Thụy là một trong số không nhiều cây bút kết hợp nhuần nhị và xuất sắc giữa suy tư và cách viết. Và chính bởi sáng tạo bền bỉ không ngừng và riêng có ấy, Đỗ Tiến Thụy đã làm giàu thêm cho đời sống văn chương Việt Nam đương đại.

Phùng Gia Thế
.
.