Truyền kỳ - hoang đường… nhưng rất thật!

Thứ Sáu, 13/05/2022, 09:34

Được lưu giữ trong dân gian, mang quan niệm và sức sống thô mộc mà khoẻ khoắn của người lao động rồi được các nhà Nho chép lại theo một quan niệm mới, nên đi vào văn bản thành văn các truyện truyền kỳ vừa là sản phẩm của mỹ học dân gian lành mạnh vừa có quan niệm khắt khe của mỹ học Nho gia. Do vậy, muốn làm sáng tỏ những giá trị mới mẻ, chúng cần được soi xét dưới ánh sáng của cả hai nguồn mỹ học này.

“Truyền kỳ mạn lục” có 20 truyện được Nguyễn Dữ ghi chép rộng rãi (mạn lục) những truyện lạ lưu truyền (truyền kỳ) để trở thành một “thiên cổ kỳ bút” của văn học trung đại Việt Nam. Tập truyện có trước “Liêu Trai chí dị” của Bồ Tùng Linh (1640-1715) hàng trăm năm. Dưới cái nhìn văn học so sánh và lý thuyết tiếp biến văn hoá hiện đại, nếu đào sâu chắc sẽ cho những luận giải thú vị về ảnh hưởng văn học giữa hai nước láng giềng đồng văn đồng chủng.

image001.jpg -0

Tập truyện là tiếng cười hướng vào tầng lớp trên với đám vua quan, thần thánh, trí thức Nho học, lái buôn... Mượn cái kỳ lạ, hoang đường, kỳ ảo để cười nhằm mục đích giáo huấn, so với trước đó là việc ít có, cái độc đáo ở đây là hầu như các đối tượng đều bị “lộn trái” để người đọc nhìn rõ mà cảnh giác, lên án, tố cáo, rồi tránh xa.

“Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu” phê phán nhân vật Trọng Quỳ là học trò con nhà giầu nhưng quen nết “chơi bời lêu lổng”, vợ là Nhị Khanh hiền thục can gián nhưng cũng chỉ đỡ phần nào. Anh ta kết thân với người lái buôn tên là Đỗ Tam. Trọng Quỳ thích Đỗ có tiền nhiều. Đỗ thì ham Quỳ có vợ đẹp. “Những khi uống rượu với nhau rồi đánh bạc, Đỗ thường lấy lợi ra dử”. Cuối cùng vợ đẹp về tay Đỗ Tam còn Trọng Quỳ thì tay trắng.

Tiếng cười hướng đến ba đối tượng, một là thói “chơi bời phóng lãng”, những kẻ như vậy thì dù có học, có vợ đẹp, có cha mẹ giàu, sớm muộn cũng là kẻ tay trắng mà thôi. Trong khi đó cái tính “căn cốt” của con người phải là “tiết kiệm” và “giữ lễ”. Hai là lên án kẻ có tiền như lái buôn Đỗ Tam đểu cáng, gian giảo lừa gạt bạn để cướp vợ bạn. Ba là mỉa mai cái “kỷ cương” vô nhân đạo là người đàn bà nên cứ phải tuân thủ cái “tam tòng”, dù có tài năng, nhan sắc nhưng cũng chỉ là nô lệ, là “vật bảo đảm” cho thằng đàn ông, dù chẳng xứng đàn ông. Nhị Khanh là người phải như thế.

Lời bình cuối truyện, dù cố kìm nén nhưng cũng bật ra những tiếng rủa: “Than ôi, người con gái có ba đạo theo, theo chồng là một. Nàng Nhị Khanh chết, có quả là đã theo chồng không? Thưa rằng không… Trọng Quỳ thật là tuồng chó lợn. Muốn tề được nhà, phải trước tự sửa mình lấy chính, khiến cho không thẹn với vợ con, ấy là không thẹn với trời đất”. Lời rủa đau mà đúng như lưỡi dao cắt đi cái ung nhọt để cơ thể xã hội được khỏe mạnh. Tả cái xấu để tránh cái xấu không chỉ đóng góp về mặt nghệ thuật, cao hơn là đóng góp về giáo dục đạo lý!

Truyền thống văn học Việt Nam không coi trọng tình yêu nam nữ, nên ít có tình yêu đẹp được miêu tả. Đối tượng chính trong truyện tiếu lâm dân gian là chuyện trai gái, những bộ phận sinh dục, những hành vi tục tĩu… Ngay mối tình Kim Kiều của cụ Nguyễn Du đẹp thế mà vẫn có nhà Nho gọi đó là chuyện “tà dâm”, Kiều là “con đĩ”… Người ta nhìn chuyện tình yêu mang tính tiêu cực là “hoang dâm”, “tà dâm”, “dâm dục”, “đĩ thoã”… Có nguyên nhân chính là mỹ học Nho giáo chi phối sâu sắc đời sống văn hoá. Mà Nho giáo ghét chuyện yêu đương nên lái chuyện đó theo hướng lệch lạc, không đúng với bản chất thiêng liêng. “Truyền kỳ mạn lục” là một trường hợp lấy chuyện “tà dâm” để giáo dục, do vậy chúng bị “lộn trái” để “làm gương”.

“Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây” kể chàng học trò Hà Nhân rủ rê hai ả nữ về nhà trọ rồi cợt nhả. Hai ả thẹn thò mà rằng: “Chúng em việc xuân chưa trải, nhụy thắm còn phong, chỉ e tình hoa run rẩy, tơ liễu điên cuồng, oán lục thẹn hồng, làm giảm thú phong lưu đi mất”. Thế nhưng đêm ấy họ vẫn “tắt đèn đi nằm. Tựa ngọc kề vàng, gối vừa xô đã khoát song hoa đào nghiêng ngả”. Mâu thuẫn giữa lời nói và hành động của hai nàng cho thấy họ quá dễ dãi. Còn Hà Nhân từ đó “tuy mượn tiếng du học, nhưng bút nghiên chí nản, son phấn tình nồng”. Cuối cùng ý mỉa mai mới bật ra, hai ả đó là hồn hoa đã thành tinh.

Lời bình tăng cường thêm màu sắc giáo huấn: “thanh lòng không bằng ít dục, dục nếu yên lặng thì lòng rỗng mà điều thiện sẽ vào, khí bằng phẳng mà cái lý sẽ thắng, tà quỷ còn đến quấy nhiễu làm sao được. Chàng họ Hà lòng trẻ có nhiều vật dục, cho nên loài kia mới thừa cơ quyến rũ”. Bài học ở đây là khuyên người ta phải giảm bớt “vật dục” đi, nếu không muốn bị “quyến rũ” bởi loài yêu ma!

image003.jpg -0
Một cảnh Diêm Vương xử án trong "Truyền kỳ mạn lục".

“Chuyện nghiệp oan của Đào Thị” kể chuyện “tằng tịu” giữa nàng Hàn Than xinh đẹp, có tài mà lại lẳng lơ với “sư bác Vô Kỷ”: “Cõi dục đã gần, máy thiền dễ chạm, bèn cùng Vô Kỷ tư thông. Hai người đã yêu nhau, mê đắm say sưa, chẳng khác nào con bướm gặp xuân, trận mưa cửu hạn, chẳng còn để ý gì đến kinh kệ nữa. Hai người ham mê nhau quá, chỉ cốt cái thú vui sướng trước mắt”.

Kể ra, nếu Vô Kỷ không là nhà sư thì mối tình ấy chẳng có tội tình gì, đằng này Vô Kỷ là “sư bác” thì thật đáng cười. Nhưng như Lời bình kết tội thì nặng quá: “Gã Vô Kỷ kia, là một kẻ gian dâm, buông thói tà dục, chẳng những dối người lại còn dối Phật của hắn thờ nữa. Giá đem xử vào cái tội như vua Nguỵ giết bọn Sa môn ngày xưa thì hắn cũng không oan chút nào”. Tức phải bắt Vô Kỷ tội chết như vua Nguỵ ngày xưa nghe lời Thôi Hạo giết hết nhà sư (Sa môn) và đốt kinh huỷ tượng, vì một lần Thôi Hạo đến Trường An, vào một chùa nọ phát hiện có binh khí và đàn bà con gái bị giấu trong hầm kín.

Ám ảnh nhất là “Chuyện cây gạo” kể về kẻ “đa dục” Trình Trung Ngộ, một lái buôn giàu có ân ái mặn nồng với Nhị Khanh - một hồn ma. Trung Ngộ thấy chỗ quàn quan tài người chết lại cho đấy là “lâu đài lộng lẫy, có hương hoa ngạt ngào”. Cuối cùng Trung Ngộ chết, mà chết thảm thương, chết rồi hồn còn bị “sáu, bảy trăm lính đầu trâu” (tức quân binh âm phủ) gông trói dẫn đi trị tội. Thế là kẻ nào “đa dục”, “đa dâm” không những dễ mù quáng mà còn sẽ dễ bị chết, chết đến hai, ba lần.

Lời bình nhận xét “cái giống ma quỷ, tuy từ xưa không phải cái nạn đáng lo”, mà lo hơn là “những kẻ thất phu đa dục”. Ở đây là sự thống nhất của cả dân gian và nhà Nho, dân gian vốn ghét kẻ buôn “Thật thà cũng thể lái trâu”, Nho giáo cũng kỳ thị buôn bán vì coi “Nhất sĩ, nhì nông” nên nhân vật Trung Ngộ bị đả kích đau đớn. Ý nghĩa bật ra: với kẻ buôn đa dâm, đa dục lại có tiền thường mù quáng (không phân biệt nổi ma với người) nên phải chịu hậu quả lớn nhất. Dĩ nhiên truyện này không chỉ dành cho kẻ buôn mà tính phổ quát của nó hướng rộng rãi hơn, về tất cả…

Tiếng cười còn lộn trái sự giả dối núp dưới cái danh đáng trọng. “Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều” châm biếm sâu sắc cái giả dối của những nơi, những kẻ mượn danh nhà Phật để làm nhiều điều dối trá. Bối cảnh câu chuyện ở “đời nhà Trần có những người cắt tóc làm tăng làm ni, nhiều gần bằng nửa số dân thường”. Gần chùa lại xảy ra nạn trộm cắp rất lạ. Đây là cảnh tượng kỳ quái lạ lùng về đám trộm ấy: “thò tay khoắng xuống một cái ao rồi bất cứ vớ được cá lớn cá nhỏ, đều bỏ vào mồm nhai nuốt hết”.

Với cách kể khá hiện đại để cho lời đối thoại của nhân vật lột trần bản chất thật, cái “mặt nạ” bị giật phăng ra làm trơ ra bộ mặt đáng kinh tởm: “Một người cười mà nói: - Chúng mình thật to đầu mà dại, bấy nay bị người đời chúng nó lừa dối; ai lại đem cái oản, một vài lẻ gạo để lấp cái bụng nặng nghìn cây mà đi giữ của cho chúng nó bao giờ. Nếu không có những buổi như buổi hôm nay mà cứ trường chay mãi như trước thì thật là một đời sống uổng”.

Sự thật được lật tẩy: những kẻ trộm đó chính là những pho tượng Phật! Lời bình của người kể chuyện vạch rõ ra cái giả dối đáng ghét: “Cái thuyết nhà Phật thật vô ích mà có hại. Nghe lời nói năng thì từ bi, quảng đại, ứng báo thì bắt gió mơ hồ. Nay xem cái dư nghiệt ở trong một ngôi chùa nát mà còn gớm ghê như thế, huống ngày thường… còn tai hại đến đâu”.

Như vậy, truyền kỳ khoác cái áo hoang đường kỳ ảo để hướng con người đến lẽ phải, đến cái chân, thiện mỹ. Thế chẳng phải là rất thật sao!

Nguyễn Thanh Tú
.
.