Tôi đi học trường huyện

Thứ Sáu, 01/12/2023, 22:05

Hòa bình lập lại, tháng 9 năm 1954 tôi lên học cấp hai. Cả huyện Thiệu Hóa (Thanh Hóa) hồi đó chỉ có duy nhất một trường cấp hai, được gọi là “Trường cấp II Thiệu Hóa” (hiện nay là Trường THCS thị trấn Vạn Hà, hay thị trấn Thiệu Hóa). Cả làng tôi năm đó chỉ có hai học sinh cấp I đỗ cấp II. Tôi và anh Lê Tâm Thể. Hai anh em tôi cùng xóm, nhà anh Thể ở đầu xóm, xóm ngoài, còn nhà tôi ở xóm trong, nhìn ra cánh đồng làng.

Chiều chiều tôi và anh Thể rủ nhau đi gánh nước giếng làng, giếng đất. Khoảng năm giờ chiều mỗi ngày, tôi ra đầu xóm gọi anh, hai anh em mỗi người gánh một đôi nồi mà làng tôi gọi là “nồi su” trên vai (tên gọi loại nồi đất, miệng tròn, dùng đựng nước mưa, nước giếng ở làng tôi) ra giếng (giếng đất) múc nước, gánh về nhà để dùng.

Hồi đó, làng tôi còn có một chiếc giếng xây bằng gạch, gần đình làng, nhưng vì nước tanh, nồng, nấu cơm thì cơm mất ngon, nấu nước chè thì nước chè mất mùi, cho nên dân làng hầu như không sử dụng. Sau này người ta đã lấp chiếc giếng này, chỉ còn lại giếng đất dùng chung. Tiếp đó giếng đất cũng bị loại bỏ, cả làng chuyển sang dùng nước giếng khoan cho trong lành, đảm bảo vệ sinh.

Cách đây một tuần, em tôi ở quê báo tin vui, làng tôi vừa được cấp nước máy, nước máy đến từng nhà, như ở thành phố. Đúng là làng lên phố. Tôi nói vậy còn là vì nhà tôi bây giờ có số má hẳn hoi, nhà số 9, đường Lãng Thượng...

Tôi đi học trường huyện -0
Đội nón rơm đi học.

Hồi kháng chiến chống Pháp làng tôi vô cùng lạc hậu, sống hoàn toàn tự nhiên, không điện, không báo chí, không đài. Đã có thời gian tôi và mấy thằng bạn trong xóm xin tiền bố mẹ, rủ nhau đi mua một cục đá galen về làm “loa galen” để nghe Đài Tiếng nói Việt Nam. Hì hục mấy ngày liền, nào lắp “linh kiện” theo sơ đồ hướng dẫn, nào leo lên hai cây cau cao nhất vườn kéo dây ăngten. Nhưng rốt cuộc không thành công. Chỉ nghe độc tiếng sột soạt, không nghe được đài, thất bại, chúng tôi buồn, mặt tiu nghỉu. Không hề có chuyện nghe dự báo thời tiết như bây giờ. Ngày mai, những ngày sắp tới, mưa nắng ra sao chẳng thể biết.

Nếu có cái gọi là “dự báo thời tiết” đi chăng nữa thì hoàn toàn dựa theo kinh nghiệm, trải nghiệm và những hiện tượng tự nhiên. Mẹ tôi thường là người dự báo thời tiết của nhà tôi. Mẹ tôi bảo: “Đêm qua tau đau ê ẩm cả người. Tay chân buồn bực, không ngủ được, chiều nay lại có mưa”. Hoặc: “Hôm nay chuồn chuồn bay thấp, bay là là sát mặt ao. Sắp có mưa”. Ông nội tôi là người báo bão cực giỏi, thậm chí rất chính xác. Ông tôi đứng giữa sân, ngắm mây trên trời. Nhìn mây ông nói với tôi: “Cháu ơi, mây trời hôm nay có vân vẩy cá như thế kia là sắp có bão đó”. Và quả đúng như vậy, mấy hôm sau bão đổ bộ vào quê tôi.

Tôi nhớ, mỗi lần có bão là một lần thiệt hại rất lớn, nhà đổ, vì hồi đó đa phần là nhà tranh vách đất. Cây cối trong làng đổ ngổn ngang, nhất là chuối, xoan. Bão tàn phá hàng giờ đồng hồ liền, cho nên trước khi bão đổ bộ phải huy động mọi phương tiện có thể để chằng chống nhà cửa. Nhà nào cũng đóng chặt cửa, cho gió bão không lọt được vào nhà. Ngồi co rúm trong căn nhà kín bưng, lũ trẻ con chúng tôi sợ vãi linh hồn, khi nghe tiếng gió rít mạnh, chỉ sợ nhà mình bị đổ. Theo kinh nghiệm thực tế ở quê tôi, phải khi nào “bão đông” nổi lên thì trận bão mới đến hồi kết. Vì bão chuyển động xoay tròn theo hướng ngược chiều kim đồng hồ mà.

Làng tôi nghèo và lạc hậu đến nỗi chẳng ai có đồng hồ, dù là đồng hồ báo thức hay đồng hồ đeo tay. Đồng hồ là một thứ xa lạ đối với dân quê chúng tôi. Mặt trời và gà gáy chính là “đồng hồ” của chúng tôi. Chẳng hạn, mười hai giờ trưa, tức là “trưa”, là lúc mặt trời đứng bóng, nghĩa là vào giờ này nếu ta đứng ngoài sân, dưới nắng trời, thì bóng người tròn xoe in ngay dưới chân mình. Còn gà gáy ban đêm chính là “đồng hồ báo thức” của nông dân, theo canh - canh một, canh hai, canh ba, canh bốn, canh năm.

Với tôi, mẹ tôi chính là “đồng hồ báo thức” của tôi. Không có mẹ tôi đánh thức chắc tôi toàn đi học muộn vì dậy muộn hoặc ngủ quên. Tôi còn trẻ, ngủ say “như chết”. Sáng nào cũng vậy, mẹ tôi lắng nghe tiếng gà gáy, nghe tiếng gà gáy là mẹ tôi biết đã mấy giờ để đánh thức tôi dậy đi học.

Hồi đó chẳng có chuyện đánh răng buổi sáng, chưa có “văn hóa đánh răng”, cho nên tôi không phải tốn thì giờ cho công việc vệ sinh cá nhân này. Vùng dậy khỏi giường, tôi chạy ngay xuống bếp, nhóm lửa nấu cơm, đun bằng rơm hoặc rạ. Tôi cho một bò gạo (ống bò chính là hộp sắt tây đựng sữa bò thời Pháp) tức khoảng một phần ba cân gạo vào cái niêu đồng để nấu bữa cơm sáng cho mình. Đó là bữa ăn tôi được “ưu tiên” không phải ăn độn. Còn cả nhà phải ăn cơm độn khoai (thường là khoai lang thái, phơi khô, để ăn dần).

Ăn xong tôi ra đầu xóm rủ anh Thể đi học. Để tới trường huyện chúng tôi phải đi bộ bốn cây số, đi qua chiếc cầu mà dân làng tôi vẫn gọi là “cầu Tây”, một chiếc cầu xi măng cốt thép bắc qua nông giang, xây dựng từ thời Pháp thuộc. Có lẽ vì vậy mà dân làng tôi gọi là “cầu Tây”. Tiếp nữa, chúng tôi đi trên con đường xuyên qua hai cánh đồng, cánh đồng làng Vận Quy và cánh đồng làng Vạc.

Đến làng Vạc chúng tôi phải sang đò, gọi là đò Vạc, hay đò Vạn Hà, qua sông Chu, để sang xã Vạn Hà, nơi có Trường Cấp II Thiệu Hóa. Là học sinh phổ thông, chúng tôi được đi đò miễn phí. Cho nên mấy người lái đò thường không thích chở học sinh, vì họ bị “thất thu”.

Sang đò khổ nhất là mùa lũ, nước sông Chu dâng cao, chảy xiết. Để sang được bờ bên kia, người lái đò phải chèo đò ngược dòng, men theo bờ đến nửa cây số, lên gần làng Khoai, rồi lúc đó mới lấy hết sức bình sinh chèo thật mạnh tay cho con thuyền sang sông. Lúc này, con đò vừa dịch chuyển chậm chạp sang ngang vừa trôi mạnh xuôi theo dòng nước xiết, nếu không lái khéo léo, con đò dễ bị đâm vào những cây gỗ to đang lao như điên giữa dòng nước xoáy. Lái con đò nhằm trúng bến là chuyện không đơn giản chút nào. Còn khi con đò bị nước lũ chảy xiết đẩy trôi xuôi, chệch khỏi bến, thì người lái đò lại phải chèo đò ngược dòng, men theo bờ, để quay lại bến. Lắm khi chúng tôi bị muộn học vì những chuyến đò “bất kham” như vậy.

Đó là mùa lũ. Còn mùa đông, nước sông Chu cạn kiệt, để lộ những bãi cát dài, có chỗ nước chỉ sâu đến rốn chúng tôi. Nhất là đoạn ở cuối làng Vạc. Những khi như vậy chúng tôi rủ nhau lội sông cho nó thích. Tôi và anh Thể, tìm đoạn nước nông, hai thằng cởi truồng, tay ôm quần áo và sách vở, lội qua sông một cách ngon lành. Vừa lội sông tôi vừa nhìn về phía bến đò, vẻ mặt đầy kiêu hãnh, ra điều: “Hôm nay ta đếch phải luỵ đò”.

Bây giờ, tại nơi ngày xưa gọi là đò Vạc hay đò Vạn Hà, nhà nước đã xây cầu Thiệu Hóa, hay còn gọi là cầu Vạn Hà, trên quốc lộ 45, nối thị trấn Thiệu Hóa (Vạn Hà) và xã Thiệu Đô. Chấm dứt cảnh sang sông phải lụy đò.

Lê Bá Thự
.
.