Tín ngưỡng tâm linh trong truyện ngắn Y Ban
Chất liệu văn hóa dân gian, yếu tố tín ngưỡng tâm linh của Phật giáo, Đạo giáo, đạo Mẫu (tam giáo đồng nguyên) đậm đặc trong các truyện ngắn của Y Ban. Chị đã cao tay khi sử dụng những chất liệu đó như là chất xúc tác, truyền dẫn. Chúng vừa là chất liệu nội dung nhưng cũng vừa là thủ pháp nghệ thuật.
Chúng góp phần "tạo cớ" hợp lí để giúp nhà văn triển khai tình huống truyện, phản ánh nhiều vấn đề của hiện thực đời sống (thời chiến tranh, thời bao cấp, thời kinh tế thị trường); báo động sự xuống cấp của đạo đức lối sống, vén mở bức màn nhân tình thế thái, tạo điều kiện cho nhân vật bộc lộ hành động, suy nghĩ qua những đoạn đối thoại sinh động hoặc độc thoại nội tâm sâu sắc. Để từ đó, người đọc nhận ra hàm ý, thông điệp của tác phẩm. Y Ban đã cung cấp vốn tri thức về văn hóa tâm linh của người Việt một cách rất tự nhiên, găm thẳng vào trí nhớ người đọc.
1.Tập truyện có đủ cả những chuyện liên quan đến tín ngưỡng của đạo Phật như "quả báo" theo triết lí nhân quả, chuyện tái sinh đầu thai, lễ cầu siêu cho những linh hồn không thể siêu thoát (kể cả chó mèo); rồi những biểu tượng Phật giáo như: cầu Nại Hà, canh Mạnh Bà, địa ngục, quỷ hai đầu, bùa… và cả sự nhìn nhận đánh giá ngầm về sư sãi thời kinh tế thị trường…
Truyện "Sự nhầm lẫn bò cái" phản ánh sâu sắc luật nhân quả. Nhân vật hắn đã bị hai con quỷ hai đầu (dưới địa ngục của Diêm vương) nhầm lẫn là một con bò cái nên đã gắn máy vắt sữa tự động kẹp vào dương vật của hắn để hút sữa trong ba giờ. Tất cả ruột gan phèo phổi của hắn bị nghiền nát cùng máu huyết chảy ra cái xô đựng sữa. Hắn bị trừng phạt vì tội dâm loạn. Quan niệm quả báo nhãn tiền cũng được đề cập trong nhiều truyện khác nữa…
Lễ cầu siêu cũng là một nghi thức của đạo Phật. Truyện "Biệt đội Thiên Lý" có nói đến lễ cầu siêu cho những linh hồn vì phải mang những bí mật xuống mồ nên chưa siêu thoát. Bí mật ấy nằm trong những bức thư của tiểu đội nữ phải làm nhiệm vụ đặc biệt gửi cho cấp trên của mình. Họ phải núp dưới thân phận những gái bán hoa cho binh lính Pháp để tiếp cận và tìm cách giết họ trong khi đang ân ái. Trớ trêu thay có cô lại yêu "kẻ thù của dân tộc" khi người ấy hiện lên với dáng vẻ của một bác sĩ đẹp trai, lịch lãm, ga lăng và quan trọng là anh ta lại nâng niu trân trọng tấm thân của cô ấy bằng một tình yêu chân thành, tử tế.
Truyện "Lễ đặt tên cho các linh hồn" cũng tái hiện cực kì sinh động nghi lễ sám hối cầu siêu để giải oan nghiệp cho các chư linh hồn uổng tử. Y Ban cảm thông với nỗi khổ của người phụ nữ Việt khi những đứa con của họ không được làm người; có biết bao lí do khách quan và chủ quan để những đứa trẻ đó bị tước mất quyền sống. Nhà văn thường cúi xuống với những phận đàn bà vất vả, bươn chải, trụ cột, éo le. Khi lo lắng, họ thường tìm đến với tâm linh như một liệu pháp tinh thần. Khi u mê hoặc gặp những vấn đề không thể giải quyết được, họ lại đi bói toán và những kẻ buôn thần bán thánh lại có cơ hội để làm tiền.
Niềm tin Phật giáo và bóng dáng nhà sư xuất hiện nhiều trong tác phẩm của Y Ban. Trong suy nghĩ của chị, chùa vẫn là chốn thiêng trong tâm thức người Việt. Khi buồn khổ, người dân thường đến chùa để thân tâm an lạc. Nhân vật "tôi" dù đang tức tối vì món nợ khó đòi nhưng khi đứng trước cửa thiền, thì: "Tôi niệm Nam Mô A Di Đà Phật rồi vái ba vái. Lòng tôi thanh thản không gợi chút vướng bận gì". Ở truyện "Làng Cò", Y Ban cũng đã dành những lời ngợi ca sư cụ ở làng Cò yên ả, thanh bình của cái thời chưa nhuốm vị kim tiền.
Nhà sư là người gìn giữ không gian thiêng, đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân. Tuy nhiên, nhân vật nhà sư thời kinh tế thị trường trong tập truyện "Trên đỉnh giời" cũng được đánh giá ở những góc nhìn đa chiều. Truyện ngắn "Con yêu tinh" đã phản ánh giai đoạn làng lên phố, kinh tế thị trường đã phá nát văn hóa, cuộc sống yên lành của một ngôi làng; và trong vòng xoáy đó, chùa làng cũng biến tướng. Nhà sư trong truyện ngắn "Ngọc ơi, đã giàu chưa?" thì sốt sắng giúp nhân vật "tôi" bốc bát hương nhà mới (dù chưa xây) rồi: "Xong việc, thầy thì thầm vào tai tôi, hết tất cả mười triệu"…
2.Tam giáo đồng nguyên đã ổn định trong tâm thức dân gian Việt Nam từ thời Lý - Trần. Do đó, bên cạnh đạo Phật thì tín ngưỡng tâm linh của Đạo giáo, đạo Mẫu cũng được phản ánh phong phú trong các tác phẩm của Y Ban. Chị thường đưa vào truyện những hình ảnh liên quan đến ông đồng bà cốt, điện thờ cô Chín và các thứ lễ như: lễ trục vong, giam trùng, lễ cắt dây tiền duyên, lễ đội bát nhang; liên quan đến thầy phù thủy có năng lực điều khiển âm binh; tục thờ thần cây theo quan niệm vạn vật hữu linh, tục cầu con, tục kiêng gặp gái, kiêng cắt dây cho người treo cổ tự tử, tục thờ cúng tổ tiên, thề nguyền trước bàn thờ cũng được tái hiện sinh động. Ngoài ra, tâm thức dân gian còn tin vào sự tồn tại của ma, quỷ, yêu tinh cũng như tin vào sự tốt xấu của số 3, số 7 và số 8… Những yếu tố này góp phần làm nổi bật bức tranh tín ngưỡng đa dạng và sâu sắc trong truyện ngắn của Y Ban.
Quan niệm của người Việt: cất lời thề trước không gian thiêng là đã được thần linh chứng giám, nếu làm sai lời sẽ bị nghiệp báo. Truyện "Có thể có, có thể không" đã minh chứng cho niềm tin ấy. Dân gian cũng kiêng cắt sợi dây oan nghiệt ấy (mà phải đốt đi) vì nếu làm thế thì người cắt sẽ "bị dớp" và 7 năm sau cũng sẽ tự tử đúng vị trí đó. Xuất phát từ quan niệm dân gian này, Y Ban đã để nhân vật Quý tự tử bởi 7 năm trước anh ta đã cắt sợi dây thắt cổ cho người hàng xóm và bây giờ đến lượt người chị dâu cũng đang lo lắng "cái dớp" sẽ đến với mình sau 7 năm nữa.
Số 7 không lành và số 3 cũng xấu nên Y Ban đã cho các nhân vật lúc thì bị chết trên chiếu bạc vì đánh bạc suốt ba ngày ba đêm không nghỉ, lúc thì cho nhân vật phạm tội hiếp dâm (bị vong oán) nên làm ăn thất bại tới ba lần… Số 8 là con số phát tài, may mắn trong quan niệm dân gian của người Việt cũng được Y Ban đưa vào truyện "Ngọc ơi, đã giàu chưa"; nhưng nó chỉ là cái cớ để tác giả nói về nhân tình thế thái trong thời buổi kim tiền.
Quan niệm vạn vật hữu linh, "có thờ có thiêng, có kiêng có lành" xuất hiện qua chi tiết: "Từ ngày dưới gốc bàng có cái bàn thờ, bà bán xôi không hái lá bàng non nữa". Người Việt ai cũng biết: cây được thờ là cây thiêng, khu vực nào có cây ấy sinh sống sẽ được thần cây bảo hộ. Nếu làm hại cây sẽ chịu những thảm họa. Vì lẽ đó mà nhân vật "tôi" trong truyện "Con yêu tinh" đã không biểu quyết chặt cây dù rằng tại buổi họp tổ dân phố, ai cũng đồng ý chặt. Hậu quả là, con yêu tinh không còn nơi trú ngụ đã hoành hành khiến dân làng sinh ra đủ thứ tệ nạn: cờ bạc lô đề, ma túy, tù tội, ngoại tình, con hư... Qua tín ngưỡng này, Y Ban đã gián tiếp đề cập tới một vấn đề nóng: sự tác động tiêu cực đến văn hóa của cơn lốc đô thị hóa nông thôn.
Và ở một vài truyện khác, nhà văn cũng đã cảnh báo: khi nào con người không còn đức tin tâm linh, không còn tôn trọng thánh, thần, Phật, Chúa thì sẽ đến thời kì mạt pháp, đạo đức con người sẽ sa sút nghiêm trọng. Thật đáng sợ, kẻ thì dám đái vào cả vào gốc cây có bát hương thờ (Con yêu tinh), người thì dám quỵt cả tiền nhà chùa vì đã không biết sợ lời răn trong quan niệm dân gian: "Của Bụt mất một đền mười" (Ngọc ơi, đã giàu chưa)…
Cũng cần nói thêm rằng: ngoài khai thác yếu tố tâm linh tín ngưỡng, Y Ban còn khai thác yếu tố thư từ, hình thức trắc nghiệm qua email… như những phương tiện nghệ thuật độc đáo ("Có thể có, có thể không"; "Biệt đội Thiên Lý"; "Cái lí của anh cả"; "Ráng chiều đỏ"; "Ngọc ơi, đã giàu chưa?"; "Lễ đặt tên cho các linh hồn"…). Thủ pháp này có lẽ là thế mạnh được tiếp nối từ truyện ngắn "Bức thư gửi mẹ Âu Cơ" (được giải Nhất cuộc thi Tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1990) của chị. Ngoài ra, đặc điểm giọng điệu của văn chương Y Ban là ngôn ngữ đối thoại có tiết tấu nhanh, thường lược bỏ chủ ngữ, ít lời dẫn truyện và nhiều đoạn độc thoại nội tâm dưới dạng lời tự vấn sâu sắc.
Đặc biệt, yếu tố tâm linh mang căn tính dân tộc và những vấn đề xã hội gai góc đã góp phần làm cho văn chương của Y Ban có vị đậm đà, chân thực mà không nhạt nhẽo, sến súa. Tất cả đã làm nên phong cách tác giả mang thương hiệu Y Ban. Tôi nghĩ, muốn đưa văn chương ra khỏi biên giới thì chỉ những gì là đặc trưng độc đáo của quốc gia mình mới được người nước ngoài háo hức đón đợi.