Thơ Nguyễn Thúy Quỳnh: Nỗi bất an về cõi nhân sinh
Tôi đọc khá kỹ thơ Nguyễn Thúy Quỳnh và nhận ra chị đã vượt qua phẩm chất trữ tình lãng mạn trước đây để xác lập cho mình một giọng điệu mới, hướng chất thơ trữ tình công dân vào hiện thực xã hội để thức tỉnh lòng người trước những diễn biến thăng trầm của đời sống và con người hôm nay.
Tôi còn nhớ mãi lần cùng các nhà văn: Chu Văn Sơn, Văn Giá, Hoàng Xuân Tuyền… lên Thái Nguyên dự lễ ra mắt tập thơ mới của nhà thơ Nguyễn Thúy Quỳnh. Một ngày vui rất đặc biệt với các bạn thơ Thái Nguyên.
Hôm đó, Chu Văn Sơn vui lắm, anh dẫn chương trình thơ rất dí dỏm và hồn nhiên. Nhưng cũng không ai ngờ được sau đó một thời gian, nhà phê bình văn học tài hoa Chu Văn Sơn đã giã biệt cõi đời này mà bài viết rất tâm đắc của anh về tập thơ này gần như là bài viết cuối cùng.
Tôi đọc khá kỹ thơ Nguyễn Thúy Quỳnh và nhận ra chị đã vượt qua phẩm chất trữ tình lãng mạn trước đây để xác lập cho mình một giọng điệu mới, hướng chất thơ trữ tình công dân vào hiện thực xã hội để thức tỉnh lòng người trước những diễn biến thăng trầm của đời sống và con người hôm nay.
Từ trữ tình lãng mạn đến trữ tình công dân
Nhà phê bình văn học Chu Văn Sơn rất có lý khi viết về thơ Nguyễn Thúy Quỳnh như sau: “Niềm thơ tạo sinh trong người thơ một chủ thể thi ca thực sự. Chủ thể ấy chứng tỏ mình bằng một cảm quan riêng về cõi nhân sinh này.
Ở Nguyễn Thuý Quỳnh cũng thế. Vạn vật hiện ra trước hết không là những vật thể, sinh thể. Mà là những thân phận, những sinh linh với sinh mệnh thật mong manh. Không gian hiện ra là chốn tồn tại đầy bất ổn. Còn thời gian là những khoảnh khắc tồn sinh đầy bất trắc. Một nhãn giới đẫm lo âu về cõi thế phù sinh.
Vậy nên, Nguyễn Thuý Quỳnh thường bận lòng về những sự ra đi, nhất là cái chết. Không chỉ đội lính trẻ chết rơi, nạn nhân động đất chết vùi, đồng bào bão lũ chết ngập, thuyền nhân di tản chết trôi, đứa bé mồ côi chết đói. Không chỉ con mèo non chết nát, đàn cá sông chết ngạt, cụ rùa đơn thân chết tủi, đám thiêu thân chết chen chết rụi. Mà cả những dòng sông chết sặc, cánh rừng chết cháy, hàng cây chết chém, lũ chim trong trứng chết lưu...
Không chỉ ra đi bởi sinh tử, mà cả những ra đi chỉ đơn giản là từ giã cái guồng quay công việc một đời người. Không chỉ những ra đi nhỡn tiền của người, mà cả sự ra đi một ngày nào đó của chính mình…
Trong thơ chị, sự ra đi nào cũng nợ nần, cái chết nào cũng tức tưởi, sinh linh nào cũng ngậm một hàm oan. "Đêm đêm/ Hồn cây về/ sừng sững trên những gốc cũ/ Triệu mắt lá chan chan lệ ứa/ Khóc những quả trứng chim còn chưa kịp nở/ Ta biết lấy gì xin tha thứ, cây ơi!". Với lòng thơ đã từng nếm trải nỗi buốt giá trước chia lìa sinh tử, thì hết thảy mọi sinh linh kia không một ai cam lòng chết, không một ai đáng phải ra đi”.
Theo tôi, dường như nhà thơ Nguyễn Thúy Quỳnh luôn mang trong mình một tiếng nói nghệ thuật không thỏa hiệp, thể hiện trách nhiệm xã hội của người làm thơ trước những sự kiện gây chấn động xã hội và lương tri.
Nguyễn Thúy Quỳnh đã dùng thơ như một ngọn đuốc - soi vào nơi tăm tối nhất, để đòi hỏi ánh sáng cho sự thật “Cho dù sự thật có mùi gì” với những câu thơ như một chất vấn: “Sự Thật/ Sự Thật/có thể trồi lên từ đáy biển sâu/ trào ra giữa dòng hải lưu nóng bỏng/ rơi xuống từ những khoang thuyền/ chất kịch độc xếp cùng thuyết âm mưu nào đó/ Sự Thật/ cũng có thể được cất trong một ngăn bàn/ sau cú bắt tay ngoạn mục/có thể chạy ngoằn ngoèo trong những đường ống bí mật/ của những não bộ tối mù/ rồi về đâu thì không ai biết/ Cho dù những xác cá thối rữa rồi sẽ biến mất /cho dù Sự Thật có mùi gì/ thơm tho như hoa hay thối rữa như cá/ chúng không được quyền biến mất/ chúng cần được hiện ra/ nguyên vẹn/ dưới mặt trời/ Đấy là điều duy nhất không thể nào khoan nhượng/ của biển, tôm cá và chúng tôi”.
Trong bài thơ trên, qua hình tượng biển chết, xác cá, và sự lặng im đầy toan tính, nhà thơ không chỉ lên án cái chết sinh học mà còn là cái chết đạo đức, cái chết của sự thật bị vùi lấp. Trong bài thơ này, tác giả đã tạo nên sự đối lập dữ dội giữa cái chết lặng lẽ của thiên nhiên và sự bùng nổ bên trong con người. "triệu mắt cá rữa nát còn xoáy vào trời xanh/ câu hỏi: vì đâu chúng tôi chết?", một hình ảnh siêu thực và đầy tính biểu tượng khi những "mắt cá rữa nát" vẫn nhìn lên trời, như những linh hồn oan khuất đang tra vấn với câu hỏi vang lên đầy nhức nhối.
Giọng thơ chính luận kết hợp với chất trữ tình
Nhiều bài thơ của Nguyễn Thúy Quỳnh có giọng thơ chính luận kết hợp với chất trữ tình hiện thực sắc lạnh. Ngôn ngữ thơ mang tính chiến đấu, không né tránh, mạnh mẽ, gợi hình, giàu ẩn dụ. Tư tưởng của các bài thơ là một lời kêu gọi dũng cảm, thức tỉnh và bảo vệ lẽ phải không phải bằng niềm tin mù quáng, mà bằng hành động, bằng đạo lý.
Đây là những thi phẩm mang hơi thở thời sự hiện đại, sắc lạnh và tràn đầy sự tỉnh thức. Tứ thơ trong các bài thơ kiểu này được kiến tạo bằng một chuỗi hình ảnh dữ dội, nghịch lý, mang tính báo động và triết lý sâu xa về thực trạng xã hội - nơi thời gian không còn trôi nhẹ nhàng, mà trôi qua như từng “tích tắc tử thần” trong đoạn thơ dưới đây: “Cơn sóng thần nào không từ đáy biển/ đang tràn qua mỗi tích tắc quanh tôi/ Đâu phải chiến tranh/ mà mấy chục cuộc đời nát vụn một ngày mìn nổ đá rơi,/ phút chốc chạm đường ray, đồng làng bời bời khăn trắng/ Một chữ ký nhẹ tênh/ kéo trập trùng sông suối núi đồi chui vào két nhỏ/ ...May còn cánh rừng mấy nghìn tuổi/ vọng tiếng khóc trẻ thơ/ kết thành chiếc phao/ cho tôi vịn/ trôi qua những tích tắc tử thần”.
Tứ thơ ở đây là tứ của sự bất lực và im lặng bị cưỡng ép và những câu hỏi chưa từng được trả lời, hay không còn ai dám hỏi nữa. Cảm giác ấy càng khắc sâu ở hình ảnh “những cái đầu siêu mỏng” biểu tượng cho sự dị dạng của tư duy xã hội. Nhiều bài thơ của Nguyễn Thúy Quỳnh được tác giả lập tứ thơ theo kiểu phát triển thành tư duy phản biện mạnh mẽ.
Có thể coi bài thơ “Về một sinh linh vừa rời bỏ trần gian” là một khúc ai điếu hiện đại cho những sinh linh nhỏ bé bị bỏ rơi trong cuộc sống, từ đó hé lộ những vết thương xã hội sâu hoắm. Tứ thơ được xây dựng theo kiểu xoáy trôn ốc cảm xúc, từ bức bối, phản kháng đến buông bỏ, đã làm nên một tiếng nói nhân văn và thức tỉnh:
“Sống như thế đủ rồi/ Thêm tuổi có thêm được gì mới/ Vài trăm năm lặn ngụp một ao tù/ Đã nhàm chán đến từng viên sỏi/ Đã phát ngấy mặt hồ lặng câm/ Đã nghìn lần ngẩng mặt nhìn trời xanh/ Biết vạn năm cũng chỉ là bóng mây trôi đáy nước/ Mang vác thế đủ rồi/ Những sứ mệnh giời ơi trên tấm lưng lở loét/ Thực ra là tạo vinh quang cho kẻ khác/ Cõi nhân gian kia vì đâu cứ nhất quyết phải dựng lên tượng đài/ Hóa thần thánh cả thứ vô tri giác/ Cô độc thế đủ rồi/ Nửa đời thui thủi một mình dưới đặc quánh xanh đen/ Trời lồng lộng bốn cõi/ Đất chật ních muôn loài/ Nào ai thấu nỗi niềm kẻ không có nổi một sinh linh đồng loại/ Giờ là lúc được trở về với thế giới của mình/ Với cha mẹ, anh em, họ hàng ở chân trời đâu đó/ Trút lại những gì ai đó đã khoác lên một hình hài cồng kềnh và buồn tủi/ Đừng than khóc rùm beng rồi làm khổ nhau/ Nếu có lòng hãy thương lấy những sinh linh cô độc đang bơ vơ trên mặt đất này/ Ấy là lời cuối cùng của kẻ vừa thác”.
Dưới vẻ ngoài của lời trăn trối một sinh linh vừa lìa đời, bài thơ chất chứa một nỗi buồn xã hội rộng lớn và một tứ thơ sắc sảo, nghẹn ngào mà tỉnh táo. Bài thơ không chỉ nói về cái chết của một cá nhân mà sâu xa hơn, là biểu tượng cho những phận người nhỏ bé, đơn độc và không được thấu hiểu trong một xã hội đầy những giả dối, áp đặt và vô cảm.
Với sự đồng cảm rất tri kỷ, Chu Văn Sơn đã phát hiện cho người đọc thấy được: “Mỗi tiếng thơ Nguyễn Thúy Quỳnh là một nỗi bất an, một cuộc dằn vặt đối với nhân tâm. Trước hết, là tâm mình. Với chị, mỗi cái chết đó đều trân trối một cái nhìn như khoan xoáy vào gan ruột. Chúng dội vào lòng thơ những dư chấn không dứt. Chúng khiến chủ thể thấm thía tận da thịt bao bất ổn của một thực tại bát nháo, cùng những mong manh của kiếp sống trong cõi thế vô thường. Chúng tra vấn thói vô cảm. Chúng chì chiết sự vô can. Chúng khiến mỗi chúng ta đều thấy mình là một kẻ bạc tâm.
Ai cũng có lỗi với mỗi cái chết ấy, có can dự vào cái bát nháo này, cái vô thường hằng diễn kia. Và, ta không khỏi hoang mang: chỉ có một lòng hiếu sinh đầy đặn mới cưu mang được sự sống này, vậy mà, dường như, trong ta, ngay cả tính trách nhiệm lẫn sự thiện lương thông thường, xem chừng, cũng đã bạc màu hết cả! Chúng ta đang là gì? Chúng ta đang là ai? Trước những sự ra đi buốt lòng đó, “nói điều chi cũng thành bất nhẫn", nên thơ không ca thán nỉ non, thơ chỉ lẳng lặng ưu tư, mà khiến đời không nguôi day dứt”.
Nhà thơ Nguyễn Thúy Quỳnh, SN 1968, quê Nam Định (nay là Ninh Bình), sống và làm việc tại Thái Nguyên, làm báo, viết văn, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Hội VHNT Thái Nguyên. Tác phẩm chính đã xuất bản: "Giá mà em từ chối" (thơ 2002); "Mưa mùa đông" (thơ 2004); "Những tích tắc quanh tôi" (thơ 2012); "Hai phía phù sinh" (thơ 2018). Đã được trao nhiều giải thưởng văn học của Báo Tiền phong; Tạp chí Văn nghệ Quân đội; Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam.
