Soi dấu chân mình qua “Ký ức BÃO”
"Khi bạn ra khỏi cơn bão, bạn sẽ không còn là cùng một người đã bước vào nữa. Đó chính là ý nghĩa của cơn bão" - Haruki Murakami, đã từng viết như thế trong tiểu thuyết "Kafka bên bờ biển". Khi đọc bút kí "Ký ức BÃO" (NXB Hội Nhà văn- 2025) của luật gia, nhà báo Lương Duy Cường, tôi chợt liên tưởng đến câu nói trên.
Lương Duy Cường là đứa con của bão, Lệ Sơn, Quảng Bình, quê anh chính là túi bão. Nơi gánh trọn những cơn sang chấn nhiệt đới, nơi mỗi cơn bão đều hầm hè ăn chết bất cứ thứ gì nó gặp dọc đường. Trong cuốn sách này tôi còn bắt gặp những giông tố trên dọc hành trình gió bụi của anh.

Ký là truyện kể về những sự kiện có thật trong quá khứ mà tác giả đã chứng kiến hoặc trải qua, ở đó độc giả có thể chạm tới tận cùng cái tôi cá nhân của tác giả. Không có nỗi đau nào lớn hơn việc mang trong lòng một câu chuyện chưa từng được kể. Có những ký ức không phai. Chúng trở thành một phần trong hơi thở mỗi ngày.
Lương Duy Cường đã kể lại câu chuyện của chính mình, không phải để cho ai nghe, mà để trò chuyện với chính mình và “cầm máu” quá khứ. Ban đầu, anh không có nhu cầu viết cho ai, nhưng vì câu chuyện hấp dẫn, đã trở nên kiểu kí ức chia sẻ, các thế hệ độc giả sẽ tìm thấy sự khác biệt trong trải nghiệm. Suy cho cùng, chúng ta được tạo nên từ ký ức- cả những chiến thắng và những vết thương.
Trong bức tranh địa văn hóa đầy biến động của văn học Việt Nam đương đại, nhiều câu chuyện hậu kì dài hơi, có những điều phô diễn hay cất giấu thì tiếng nói của sự thật, vẫn hấp dẫn độc giả. Đó chính là đặc điểm phi hư cấu của ký. Ai cũng có những khoảng thăm thẳm, xa mờ - cái chưa biết của ngày mai. Nhưng chúng ta đều có ngày hôm qua, sự thật xếp nếp, dẫu có cố tình chôn cất thì ở thời điểm chín, sự thật tự nó bật ra. Tôi tìm thấy tinh thần ấy trong ký ức của anh. Anh viết không phải là cách sơn phết cho chữ óng lên, mà là cách mổ xẻ để chữ hiện diện trong vẻ nguyên thủy, thuần khiết và giản dị.
Anh đã đưa cơn bão Lệ Sơn vào trang viết, thành cơn bão chữ. Để tôi có trải nghiệm hứng bão miền Trung, tuy không phải là trải nghiệm thực tế, nhưng cách truyền bão qua ngòi bút của anh, ít ra cũng giúp tôi đi tới tận cùng cảm xúc. Tôi chạm tới kí ức của người không cùng thế hệ, để thấy những vết xước tâm hồn, những cảm thức trái chiều: động/ tĩnh, buồn/ vui, bất hạnh/ hạnh phúc. Nhớ và biết ơn quá khứ là cách để con người sống tử tế hơn ở hiện tại.
Bão đã hất con người phải đi khỏi mảnh đất của họ. Họ bị thổi bạt đến những miền xa lạ. "Rời làng đi đến đâu cũng gặp đói. Rốt cuộc, họ kéo nhau lầm lũi vượt rừng, đến đâu thì đến. Đến Lào, ai tơi tả quá thì phải rớt lại, ai còn sức thì sang tận Thái Lan". Những cơn sang chấn thiên nhiên đã đẩy họ vào những cơn thiên di ồ ạt. "Bão tràn vào chỉ đúng một đêm là sông Gianh cuộn sóng, dốc hết nước vào làng". Gia súc, gia cầm chết, người chết. "Cả nhà anh tôi đã không nói ra hơi, sống mà như chết, vợ chồng con cái đã cột chân tay níu vào nhau phòng lỡ có chết thì còn cùng tìm ra xác". Bão tuyệt tận, dạy con người chuẩn bị hậu sự cho cả gia đình bằng cách không ai muốn. Nhưng từ khóa cho tinh thần phản bão của người nơi đây là sự kiên cường, lạc quan.
Một ông Mẹt Hịm tếu táo "Thiên Lôi sợ tôi thách đấu mà… Nhưng trước khi bỏ chạy, Thiên Lôi cũng kịp ném chùy vào mông tôi nè". "Hóa ra là trong bão, mông ông hứng trọn cả một quả mít". Hay có lúc vẫn ông Mẹt Hĩm nhìn thiên tai mang khuôn mặt của niềm vui "cả năm ni không lụt không bão lấy chi mà vui". Và cách ông lý giải vừa nhẹ nhõm lại xót xa, thương đến nghẹn ngào "bão lụt đến rồi đi, đau thiệt, xót thiệt nhưng bộ đội, học sinh, sinh viên về đông lắm. Họ giúp dân thông đường, lợp nhà rồi còn tổ chức văn nghệ vui lắm, chứ bình thường ai đến cái nơi heo hút này".
Trong bão mới thấu được bản lĩnh, sự lạc quan và tinh thần đoàn kết của dân ta. Bão tan, trả lại cho đất phù sa bời bời, trả lại cho người những yêu thương và hy vọng. Điều đó cũng lý giải vì sao những con người nơi đây lại dẻo dai, quật cường và giàu khát vọng đổi đời đến thế.
Trong "Ký ức BÃO", anh đã chia sẻ 17 phân mảnh ký ức, với lối viết giản dị, từ chối trang sức ngôn ngữ, không chủ ý ve vuốt kí ức của bất kì ai. Nhưng trên dòng năm tháng ấy, anh đã neo trái tim mình vào những vùng giông gió, nếu có trong khoảng lặng, thì đó cũng chỉ là cơn nín thở chờ trút giận dữ tố lốc. Những địa danh mà anh nhắc tới, có nhiều khi tôi chỉ gặp qua sách báo mà con mắt và đôi chân tôi hoàn toàn xa lạ. "Phượng đỏ Nậm Chu", "Làm báo tốc hành ở Trường Sa", "Diện kiến Bạch Mã Sơn", "Áo xanh trên đỉnh Giăng Màn".
Tôi gặp Lương Duy Cường ở Võ đường Nghĩa Dũng Karate - Do, anh không chỉ là môn sinh học võ mà còn học đạo đức. Con người ta, từ lúc sinh ra cho đến khi về thế giới bên kia, thiếu gì lúc phải giao đấu với số phận. Má trái, má phải hay tim, gan đều hứng đòn cân não, không chỉ đương đầu mà còn là cách vượt lên để vững tin mà làm người tử tế. "Hóa ra, ở đời, để học làm người tử tế thì phải biết soi bước chân mình, nhìn ra thiên hạ rồi nhìn lại chính mình… Vì chiến đấu với bản thân luôn là một cuộc chiến đấu trường kỳ và gian khổ nhất". Và anh đã mang thứ võ khí tinh thần ấy vào cuộc trần ai.

Ấu thơ Lương Duy Cường trôi qua trọn vẹn trong đời sống thiếu thốn thời bao cấp. Mùi tem phiếu là một thứ gia vị đặc trưng trong những bữa ăn đạm bạc của gia đình anh. Ngôi trường cấp 3 mà anh và bạn bè theo học "dựa lưng vào đồi Nậm Chu, ngoảnh mặt ra sông Gianh trầm mặc". Khát vọng con chữ trong những cậu trai vừa mới lớn dựng chênh vênh bên lưng đồi bằng những túp lều tre và lá cọ. Chỉ có học và đói, đến nỗi đói quá, phải đi hái trộm rau của thầy, thầy bắt gặp và nhắc trò "Ăn cắp là tội rất xấu. Trái bí, ngọn rau cũng không nên ăn cắp. Nhưng đây là vườn của thầy, mấy em đói cứ vào hái nhưng nhớ hái trái to, chừa trái non lại để mai mốt nó lớn mình ăn được nhiều hơn".
Cũng vì đói nghèo mà đám trai phải nhảy tàu về quê. Trong một chuyến đi mạo hiểm, có một chàng trai tên Nhường đã mãi mãi nằm lại giữa đường tàu tuổi đôi mươi. Anh bị "chai dầu bể cắm vào giữa bụng ruột cứ thế phòi ra… bò lết giữa đường tàu với hai chân và một tay, tay còn lại ôm cả mớ ruột". Có cả những người bạn học được phong số má nghịch phá của anh như Nhàn, Cơ, chính họ tình nguyện viết đơn nhập ngũ. Và "những tay anh chị Nậm Chu ngày nào lần lượt báo tử. Chiến trường ác liệt là thế mà tịnh không một ai đào ngũ".
Màu phượng cháy là màu hoa học trò ở đất nước này, nhưng "Phượng đỏ Nậm Chu" còn là màu ký ức nhói buốt về khoảng trống mất mát của người bạn học. Có những rỗng tuếch ký ức không thể lấp đầy, bởi đó là đôi bờ cắt chia thăm thẳm của sự sống và cái chết. Anh đã tái hiện cùng lúc, những đứt gãy của thế hệ mình, trong ngã rẽ số phận. Nếu viết cùng tâm trạng này, nhiều tác giả khác sẽ chọn ngôn từ thống thiết như một hộ chiếu nghệ thuật, thì anh khước từ nước mắt. Anh thay thế mặn mòi bằng màu phượng rực đỏ như lửa, bằng hơi ấm đêm lửa trại, bằng gió chở phượng dệt chói chang mặt sông Gianh. Và trầm tích của con sông ký ức trong anh đã lấy nước mắt của tôi rồi.
Anh dựng lên "Đêm trắng ở rốn lũ", "Vòng cung Tây Bắc", "Nốt lặng giữa phố", "Sông Gianh đi qua đời tôi", "Tím độ em về", "Người làng", sao mà da diết và "Chan chứa những ân tình". Trong cuốn sách nhỏ, chữ anh là những cảm xúc tự nhiên, mãnh liệt. Cơn bão đời người, để nhớ, thoại, vọng, để mỗi người phải biết "soi bước chân mình".
Ký ức Lương Duy Cường không theo căn tính cố hữu mà hiển hiện bằng những đứt gãy, chênh vênh, ngưng kết, hoàn lưu và hồi hướng. Nó như thể cấu trúc thiên tai - cấu trúc BÃO. Nhưng không dừng lại ở thiên tai mà còn là những giông lốc của đời người. Viết không chỉ là lối đi sâu vào kí ức mà còn là cách mở ra những dư chấn sâu thẳm. Người viết sẽ ra sao, nếu anh ta không có những cơn va đập bản thể? Mà sáng tạo nào không khởi sinh từ sự thật. Bởi thế, "Ký ức BÃO" không chỉ mang khuôn mặt sự thật, mà còn toát lên vẻ đẹp nghệ thuật ngôn từ và sự tích nén cảm xúc. Lương Duy Cường đã vượt BÃO để vững vàng và sống tử tế. Làm người, đừng sợ BÃO.