Nhà văn Phạm Vân Anh: "Tôi đặt mình trong vai một thiếu niên để viết"
Trung tá, nhà văn Phạm Vân Anh, người có mối duyên đặc biệt với màu áo lính và các em nhỏ vùng cao, tuổi 15 chị đã làm thơ và những bài thơ từ buổi đầu ấy đã góp mặt trong tập thơ mới nhất, mang tên "Khúc hát miền trời"; tập thơ được xem là một hướng sáng tác mới, sau chuỗi các tác phẩm đã làm nên phong cách văn chương của chị.
"Khúc hát miền trời" (Thơ thiếu nhi) của tác giả Phạm Vân Anh, do NXB Hội Nhà văn xuất bản, chính thức ra mắt độc giả vào 5/2025. Tập thơ bao gồm 45 bài, trong đó đa phần các tác phẩm được viết vào nửa cuối năm 2024 và có những bài được viết khi tác giả học cấp II tại Hải Phòng.

Tập thơ được chia làm hai phần: "Chuyện nước nhà" và "Những người bạn trên dải ngân hà". Tại đây, độc giả sẽ tìm hiểu về lịch sử dân tộc từ "khởi nguồn" tới những sự kiện có tính "bước ngoặt" gắn với tên tuổi các vị anh hùng, các địa danh cùng công cuộc dựng nước, giữ nước của dân tộc ta, trong quá khứ và hiện tại. Các bạn sẽ hiểu thêm về cội nguồn, quê hương, đất nước khi tiếp tục "khám phá cảm xúc" của bản thân thông qua những bài thơ giàu tính nhạc, chất đồng dao, phù hợp với lứa tuổi như: “Khúc hát miền trời”, "Chuyện nhà Cốc", "Sau lũ", "Hội làng", "Rừng cọ", "Đàn cò trắng”, "Cầu vồng lửa", "Sông Lô"... Từ đó, các em có dịp làm đầy thêm vốn từ ngữ thuộc kiến thức phổ thông về thế giới động vật, địa lí, văn hóa đặc trưng vùng miền đồng thời nhớ nhiều tên nhân vật, sự kiện, địa danh, tên núi, tên sông đã đi vào lịch sử...
Theo nhà phê bình Hoàng Kim Ngọc: "Khi chọn thử sức với thơ thiếu nhi, tác giả Phạm Vân Anh đã có ý hướng các sáng tác của mình vào việc dạy học lịch sử qua thơ, cung cấp vốn từ, giáo dục các em tình yêu, niềm tự hào, lòng biết ơn... Có thể nói, đó là một cách "đọc là chơi, chơi mà học" khá độc đáo".
Nói về lần "thử sức" này, nhà văn Phạm Vân Anh chia sẻ: "Là một người mẹ và là một nhà văn áo lính, tôi nhận thấy, chúng ta đang có một thế hệ thiếu nhi với thể lực tốt, nhận thức tốt, tự tin, tự chủ... Đặc biệt, sự tiếp cận của các em với lịch sử dân tộc, truyền thống cách mạng, với Bác Hồ và hình ảnh chú bộ đội... thông qua các tiết học ngoại khóa cũng rất thú vị. Vì thế, tôi nghĩ nếu chuyển các sự kiện, nhân vật lịch sử thành những vần thơ phù hợp với khả năng tiếp thu, cảm nhận của các em sẽ là cách giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ ngay từ bậc tiểu học và trung học cơ sở...”.
Hiện nay, việc đưa "thơ thiếu nhi" vào nhà trường để làm tài liệu giảng dạy, tăng cường hiệu quả dạy và học không còn mới nhưng để đưa tác phẩm vào hoạt động dạy và học lại là câu chuyện đầy thử thách đối với những ai mới tiếp cận với mảng đề tài này. Tác giả Phạm Vân Anh thừa nhận: "Đây thực sự là một việc khó bởi bản thân tôi vốn sáng tác theo trường phái hậu hiện đại nên chuyển sang viết cho thiếu nhi là một cuộc đấu tranh nội tại với thi pháp quen thuộc của chính mình, một sự “đổi mới” trong giọng điệu và tư duy thơ. Mặt khác, vì đề tài đã định sẵn và lệ thuộc vào những dấu ấn, đặc điểm cụ thể trong chính sử nên rất khó để thể hiện bằng ngôn ngữ thơ, dẫn đến có chỗ không tránh khỏi bị ép vần...".
Đọc những tác phẩm đã in trước đó, ta bắt gặp những câu thơ nén tối đa, bung hết cỡ, ở đó tác giả được tự do thể hiện cá tính sáng tác, bạn đọc phần nào hiểu về cái khó trong lần "thử sức" mới này của chị: "Ngôi nhà bị đày trong im lặng và không gì lấp đầy khoảng trống nơi chiếc ghế anh ngồi, chiếc cốc anh uống và chiếc gạt tàn ngổn ngang đầu lọc thuốc. Khoảng trống đau dịu dàng…" (Biệt khúc). Hay trong hành trình tìm về "nguồn gốc", nói về cuộc thoát thai của chính mình, chị viết: "Ở đâu đó giữa đại dương xa xôi/ Là nơi linh hồn tổ tiên tôi trú ngụ/ Dưới lớp sóng bạc lang thang/ Một ngôn ngữ được sinh ra/ Những đứa trẻ da đen thoát thai từ mẹ biển...".
Ở "Khúc hát miền trời", tác giả tiếp tục viết về "nguồn gốc", viết bằng những câu thơ hoàn toàn “thiếu nhi”: “Ngàn năm…/ Câu chuyện cổ/ Bà kể thắm môi trầu/ Đường núi sớm/ Sương mây/ Dạy cháu bao thần thoại/ Đường rừng chiều/ Nắng trải/ Kể cháu nghe sử thiêng...”. Và có biết bao em nhỏ đã lớn lên trong lời ru, câu chuyện kể của bà, của mẹ về “Quả bầu truyền thuyết” đó: “Người Việt Nam chung rễ/ Người Việt Nam chung dây…/ Thuở đó đất Mường Then/ Hoang vu và thưa vắng/ Then Lớn làm quả bầu/ Đưa loài người thả xuống/ Từ lòng bầu rộng lớn/ Từng tộc người bước ra…”.
Từ “cái tôi” đầy chất lính, chất trữ tình chuyển sang viết cho thiếu nhi, tác giả gần như đã “thoát vai”, như chị chia sẻ: “Tôi phải đặt mình trong vai một thiếu niên lớp 5, lớp 6 để đặt câu hỏi với bản thân mình, viết như thế nào mới chạm đến được cảm xúc của các em, đặc biệt là tạo được hứng thú, truyền được tình yêu văn học, lịch sử đến với tuổi thơ...".
Ngoài những bài được viết khi còn là học sinh như "Mẹ" (1996), "Bình yên" (1995), "Sông" (1997), hầu hết các bài trong tập thơ đều được tác giả lên đề cương, tham khảo kỹ... Viết “Chuyện nước nhà”, cũng là dịp để tác giả đọc lại lịch sử, chắt lọc thông tin bởi chị mong muốn, tác phẩm của mình ngoài yếu tố văn chương còn có thể là một cuốn văn học sử nhẹ nhàng bằng thơ, lan tỏa cảm hứng tự hào dân tộc, lòng biết ơn đến với các em một cách tự nhiên: “Yêu sao trang sử nước nhà/ Trời Nam vang khúc tráng ca hào hùng” (Phá cường địch). "Rưng rưng em chạm/ Vào từng thân gai/ Máu người yêu nước/ Còn ấm đất này/ Các chú nằm đây/ Hàng nghiêm, lối thẳng/ Sợ chú đau thêm/ Tay hương nhẹ cắm..." (Em đi thật khẽ).

Các biện pháp tu từ như nhân hóa, so sánh, điệp từ, hoán dụ… được tác giả sử dụng khá nhiều để gợi liên tưởng và trí tưởng tượng cho các em. Ví dụ, viết về chú lính đặc công, tác giả kết hợp giữa tả, so sánh, từ láy để chú lính hiện lên thật chân thực, ấn tượng ngay từ câu đầu tiên: “Trùi trũi than đen/ Rong rêu lấp láp/ Chú lính đặc công/ Trườn trong gió rét…” (Ảo thuật gia áo rêu). Tác giả viết theo thể thơ 3, 4, 5 chữ, có đôi ba bài là 6 chữ và lục bát…. nhờ thế nhịp thơ chắc, ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thuộc: "Nhớ khi xưa/ Con thơ bé/ Mùi của mẹ/ Là sữa thơm/ Là búng cơm/ Mẹ chăm mớm/ Mùi khuya sớm/ Những rạ rơm..." (Mùi của mẹ). "Bò lốc ca lốc cốc/ Nhà xoắn nón trên người/ Họ nhà ốc rất lười/ Chân bụng lê rất chậm/ Bạn nào ồn ào nhất/ Đích thị ốc tù và/ Bạn nào xức nước hoa/ Là ốc hương rất điệu...” (Chuyện nhà ốc).
Bất cứ, một tác phẩm nào trước và sau khi ra đời đều không thể thiếu sự tham khảo và ý kiến đánh giá của giới chuyên môn. Những phản hồi từ độc giả và giới phê bình sẽ trở thành động lực để tác giả tiếp tục sáng tác và tự tin hơn ở thể loại thơ thiếu nhi.
Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết đánh giá rằng: “Thơ Phạm Vân Anh nhiều bài có thể đưa vào SGK tiểu học. Nhưng tôi chọn hai bài “Muôn sắc hoa tươi” và “Chú Công an” vì đó là những bài thơ hay, giàu hình ảnh, cảm xúc viết về hai đề tài rất khó. “Muôn sắc hoa tươi” thể hiện triết lý bình đẳng giới bằng những hình ảnh rất sinh động mà sâu sắc. Còn “Chú Công an” viết về bảo vệ trật tự an ninh, nhưng nhà thơ không nói những điều to tát, khô khan mà dựng lên hình ảnh vừa cảm động vừa nên thơ: “Các chú thức cùng đom đóm/ Qua đêm dài tới bình minh”. Một tác giả mới thử sức với thơ thiếu nhi mà đã góp được hai bài vào sách giáo khoa, đó là một thành công rất đáng ghi nhận".
Và dù, đặt mình trong lứa tuổi nào, viết cho ai thì khi viết tác giả vẫn luôn viết bằng cả trái tim của một người lính, sự hiểu biết và cảm xúc của một nhà văn, bằng tất cả sự trong trẻo, tha thiết của một cô bé khi ngày ấy vừa bước vào độ tuổi mộng mơ...
Đọc “Khúc hát miền trời”, nhớ về một miền trời đã xa, nơi ấy là tuổi thơ. Ai cũng có một dòng sông chảy qua cuộc đời, thầm lặng và da diết: "Sông vắt dải lụa mềm/ Giữa đôi bờ xanh mướt/ Hạt phù sa căng tròn/ Ngấm trong từng mạch đất... (Sông). Ai cũng có "Mẹ", người cả đời để bụng đói nuôi con: "Người mẹ ngồi đan áo ấm/ Đèn thức cùng trăng sao/ Gió đẩy cửa lẻn vào/ Thấy mẹ ngồi, lại trốn..." (Mẹ). Ai cũng có những tháng ngày nhớ bố, chờ bố: “Có con tắc kè…/ Tặc lưỡi trong đêm/ Nó nhắn rằng bố/ Sắp về với con..." (Thư gửi bố). Và cuối cùng, ai cũng ít nhất một lần trong đời được thấy mình bình yên trong khoảnh khắc: “… Bà đang ngồi khâu áo/ Gió luồn qua trôn kim/ Chợt tiếng gà cục tác/ Xanh cả chiều bình yên". (Bình yên).