Đọc "Tuyển tập thơ Nguyễn Đức Mậu", NXB Hội Nhà văn, năm 2023

Nguyễn Đức Mậu, một đời tử tế và muôn thuở thơ hay

Thứ Sáu, 28/02/2025, 06:58

Đọc "Tuyển tập thơ Nguyễn Đức Mậu", tôi có cảm giác như là đang đọc một tổng tập tổng kết về chiến tranh bằng thơ, và những nỗi niềm day trở về những thế phận người của một người lính sau thời trận mạc.

Không chỉ đồ sộ và hoành tráng về dung lượng và chất lượng tác phẩm, mà Tuyển tập gồm hơn 500 trang in này đã gửi đến chúng ta rất nhiều thông điệp, trong đó có cả những cảnh báo, cảnh tỉnh về chiến tranh, hậu quả của chiến tranh và trận mạc lòng người sau tiếng súng ở đâu đó hôm nay.

Là một người lính từng xông pha nơi trận mạc, trực tiếp chiến đấu ngoài mặt trận nên thơ ông là thơ của một người trong cuộc. Ông viết bằng máu và nước mắt. Viết thay cho bao bạn bè, đồng chí đã ngã xuống giữa chiến hào ngay bên cạnh ông. Vì thế mà nó rất chân thực, đau đớn và cảm động.

Nguyễn Đức Mậu, một đời tử tế và muôn thuở thơ hay -0
Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu.

Tôi đã thuộc rất nhiều bài thơ của ông, nhưng khi được đọc cả tuyển tập này mới biết, mình chưa biết gì nhiều về Nguyễn Đức Mậu. Có lẽ chính vì vậy mà tôi dừng lại khá lâu ở từng bài, đọc kỹ từng bài của ông. Và tôi dám cam đoan là, ít có nhà thơ nước Việt nào viết về chiến tranh cảm động và hay như ông.

Đọc ông nhiều lúc, tôi có cảm tưởng, chiến sự đang diễn ra trước mắt. Nhưng không vì thế mà bi ai?! Bởi đằng sau những câu chữ như nước mắt, Nguyễn Đức Mậu vẫn mang đến cho chúng ta một niềm an ủi. Thơ ông là chỗ dựa cho nhiều "bấu víu" xung quanh. Ông "hướng thiện" cho cả kẻ thù bằng lòng nhân ái, vị tha, bằng cái bắt tay còn ám đen khói súng, chỉ những mong trở thành sứ giả của tình bằng hữu trong yên bình, hạnh phúc. Là một người tử tế, không màng lợi danh, sống chi chút với đời, có trách nhiệm với gia đình, xã hội nên không ngạc nhiên gì, khi đâu đó đều khen ông, kính trọng ông. Nguyễn Đức Mậu là một nhân cách lớn, tác gia lớn, có tâm thế lớn. Phủ nhận ông là phủ nhận văn học sử nước nhà.

Ông cũng như các thi sĩ tài danh Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Trần Mạnh Hảo, Thanh Thảo v.v... và bao nhà thơ Việt Nam thời chống Mỹ, bước ra từ cuộc chiến nhưng nỗi niềm gửi gắm trong thơ vẫn như những ngày cầm súng trực tiếp chiến đấu ngoài trận địa vì lẽ phải và công lý. Ông đã vinh dự được nhận giải thưởng Nhà nước. Mừng cho ông cũng là mừng cho cả thế hệ các nhà thơ thời chống Mỹ, các nhà thơ mặc áo lính.

Xin được bắt đầu từ "Nấm mộ và cây trầm". Bài thơ ông viết về người đồng đội có tên Hùng, là bạn ông, là một trong những kiệt tác của thơ nước Việt, viết về cuộc chiến tranh chống Mỹ của cả dân tộc. Đây có thể xem như là một trường ca đầy hào sảng và bi tráng. Lần nào đọc bài thơ này tôi cũng ứa nước mắt vì cảm động: "Anh trinh sát hy sinh trao lại tấm bản đồ/ Anh xung kích hy sinh phất cao cờ chuẩn/ Xin Hùng hãy trao cho mình khẩu súng/ Trận đánh vẫn còn tiếp diễn, Hùng ơi!...".

Chiến tranh là vậy đó, có đau đớn và khốc liệt nào hơn khi mà: "Cái chết bay ra từ nòng súng quân thù/ Nhận cái chết cho đồng đội sống/ Ngực chặn lỗ châu mai, Hùng đứng thẳng/ Lửa bén vào áo lính tuổi hai mươi".

Chết cho đồng đội sống là một phẩm chất cao đẹp tuyệt vời của Bộ đội Cụ Hồ bất kể thời nào. Còn để sống xứng đáng với người đã khuất là cả một vấn đề, mà Nguyễn Đức Mậu ngay lúc Hùng ngã xuống đã không quên nhắc nhở: "Thôi mình đi Hùng nhé! Hãy yên nằm/ Trận đánh đêm nay vắng Hùng cài bộc phá/ Trận đánh trường kỳ vắng Hùng tham dự/ Trận đánh cuối cùng chiến thắng phải về ta".

Lạc quan của người lính. Nguyễn Đức Mậu đã tiếp lửa cho bao đồng đội. Khi chiến thắng đã về ta, đất nước đã đoàn viên, thống nhất, Nguyễn Đức Mậu vẫn chung thủy với màu áo lính. Cây bút thay cây súng, ông vẫn là một người lính tiên phong trên mặt trận văn hóa, tư tưởng của Đảng.

Và ngôi số nhà số 4, Lý Nam Đế, trụ sở thứ hai của Hội Nhà văn Việt Nam là "mặt trận" mới của ông. Bao năm làm biên tập, rồi là Trưởng ban thơ của Tạp chí Văn nghệ Quân đội, ông luôn coi nơi đây như là tổ ấm thứ hai của mình.

Cảm động cũng như "Nấm mộ và cây trầm" khi ông viết về cây đại già trước cổng cơ quan: "Nắng mưa nhiều thế cây ơi/ Có bao người anh đã khuất/ Gia tài còn dăm quyển sách/ Gốc cây trống vắng bóng người".

Hiu hắt một nỗi buồn. Buồn cũng như ngày ông về hưu, rời Tạp chí: "Những điều cây còn giữ được/ Vô tình người viết bỏ rơi/ Không lẽ lòng mình tẻ nhạt/ Với bao tai biến cuộc đời?".

Thức ngộ và cảnh tỉnh này cũng là nỗi niềm của bao người lính trở lại chiến trường xưa, để tìm mình, tìm đồng đội: "Mình bỏ lại bàn chân nơi điểm chốt/ Ngôi mộ bạn vô danh như đất/ Bàn chân mình hóa thạch ai hay/ Nhiều khi vẩn vơ nhìn đôi nạng gỗ/ Gặp một con đường Trường Sơn mây bay".

Chút an ủi ấy cũng đã đủ để ấm lòng khi mà: "Nhìn khuôn mặt bạn bè/ Cháy một vùng gió nắng/ Nghe giọng nói bạn bè/ Cháy một nỗi thương nhau/ Giọng nói khô rang lẫn gió cát bay vào/ Vành mũ lính có hai vành mưa nắng/ Mắt đăm đăm nhìn con đường bụi cuốn/ Nhớ se lòng một bóng người qua".

Bắc Lào và Nguyễn Đức Mậu trong những ngày đến với đoàn quân tình nguyện đấy. Còn đây là đường số 9: "Tôi đào hầm dưới đám cháy rừng lau/ Thương cây cháy đến cái mầm đương ủ/ Thương đất cháy đến sắc màu hóa đá/ Lửa vẽ vòng nơi đáy hố bom sâu".

Đọc những câu thơ trên của Nguyễn Đức Mậu, tôi có cảm giác mình như vừa được xem một thước phim quay chậm về đường 9, về Trường Sơn trong những năm chiến tranh ác liệt. Và sự ác liệt này được Nguyễn Đức Mậu khắc họa lại rất đau đớn và khủng khiếp trong "Đêm Thành Cổ năm 1972". Không là người lính quyết tử ở đó không thể biết: "Đêm Thành Cổ ngổn ngang gạch vụn/ Đoạn chiến hào đầy tiếng chuột kêu/ Bầy chuột đói gặm xương người...".

Đọc. Sởn da gà. Và cảm phục, đúng là không ai viết về chiến tranh giỏi như Nguyễn Đức Mậu. Hình như ông và Phạm Tiến Duật đã làm cho cả thế giới biết về chiến tranh do Mỹ gây ra ở Việt Nam nhiều hơn. Thơ của các ông đã góp phần thức tỉnh lương tri của nhân loại. Trong những câu thơ như xé lòng ấy tôi như nghe được nỗi ai oán, bi thương đòi trả thù, nghe được cả những lời hiệu triệu.... Cùng với những câu thơ, bài thơ dữ dội, khắc họa rất thành công chân dung những người lính trong chiến tranh là những thi phẩm viết về thời hậu chiến thăm thẳm một nỗi buồn đầy tiếc thương, ám ảnh.

Giá như đừng có chiến tranh. Nhưng giá như làm sao được? Biết là phải trả giá nhưng phải cầm súng chiến đấu vì kẻ thù đâu có để chúng ta yên. Và muốn yên được, trước hết là lòng người phải không còn trận mạc. Những câu thơ của Nguyễn Đức Mậu viết sau năm 1975 vì thế trầm lắng hơn. Sau bao nhiêu trải nghiệm là rất nhiều chiêm nghiệm, thơ ông như liều thuốc quý chữa trị vết thương, như tiếng chim gọi bầy. Tôi thích cái bâng khuâng da diết này: "Hà Nội chiều nay nắng vừa đủ nắng/ Gió cũng vừa đủ gió để rung cây/ Mặt hồ rộng thực hư làn khói mỏng/ Rượu bạn mời tôi uống cũng vừa say".

Phải là người chân tình, gắn bó với nhau lắm mới uống với nhau như thế, để mà còn đủ tỉnh táo chiều nay, biết đâu Hà Nội gió trở mùa?! Nơi này không có tuổi thơ ông, thời trai trẻ trận mạc không ở đây. Nhưng ở đây bây giờ là nơi ông ở, nơi mà ông cần có những buổi chiều thong thả của riêng ông để nhìn lại: "Nơi tôi ở một số nhà quen thuộc/ Tóc em dài buông xõa xuống mùa thu/ Nhiều lúc khát khoảng trời xóm mạc/ Chiều lá vàng như máu xót của vần thơ".

Rất đau đớn nỗi lòng người xa quê dù giữa Thăng Long ngàn năm văn hiến đang mùa cốm Làng Vòng ngát thơm, có ngôi nhà quen thuộc và mái tóc em như suối buông xõa xuống mùa thu.

Mùa thu Hà Nội đẹp đến nao lòng nên đọc những câu thơ trên của thi sĩ Nguyễn Đức Mậu ta như gặp chính mình trong thương nhớ khôn nguôi khi phải sống ly hương. Những người đang xa xứ, vất vưởng ở góc bể chân trời nào, có lẽ còn buồn, đau hơn cả vậy?!

Vẫn biết "Cô đơn là báu vật của tâm hồn" nhưng giá mà vui lên được thì vẫn hay hơn. Trong ông là bao nhiêu tâm sự, có cảm giác như nước mắt ông đang chảy ngược vào tim: "Có những canh khuya chợt thức/ Nỗi buồn cùng cánh dơi chập choạng bay về/ Tôi cố xua đi nỗi buồn không tan được/ Nỗi buồn len vào cơn mê".

Buồn đến không thể buồn hơn: "Ngày hôm trước viết mười câu thơ/ Ngày hôm sau xóa mười câu đã viết/ Ngày sau nữa trước lam nham bản nháp/ Tìm lại đôi dòng mình xóa bỏ ngày qua".

Sao mà đúng quá, hay quá nhà thơ Nguyễn Đức Mậu ạ!

Thơ hay không lụy ở đề tài. Truyền thống hay tự do, viết thế nào là tùy ở "tạng" từng người. Chủ đích của ông là thơ phải chở "Đạo", phải có nỗi niềm gì, thông điệp gì gửi gắm.

Từng biên tập nhiều chục năm, lại như là "Thánh thơ", nên trong Nguyễn Đức Mậu có cả tinh hoa của đất Nam Định văn nhân và sự uyên thâm của kẻ sĩ Bắc Hà - Thăng Long - Hà Nội. Thêm nữa, ông lại là người đọc nhiều nên - "kim - cổ - đông - tây" trong ông đều có cả. Làm thơ trên một cái nền văn hóa và tri thức như thế, lại được thiên phú nữa, bảo Nguyễn Đức Mậu không hay sao được khi mà nhiều câu thơ, bài thơ của ông đã đi cùng năm tháng, đã thuộc về muôn thuở.

Hùng Đô, ngày 13/11/2024,
Việt Trì, rằm nguyên tiêu Kỷ Tỵ 2025

Nguyễn Hưng Hải
.
.