Ngô Đức Hành: Rễ tôi bám chặt rú nghèn
Ngô Đức Hành quê ở Nghèn, cũng dòng dõi họ Ngô danh giá. Bạn đọc từng quen với Ngô Đức Hành, một nhà báo nhanh nhạy, sắc sảo quan tâm và lên tiếng kịp thời đến nhiều mặt của đời sống. Anh ra Bắc, vào Nam như con thoi. Vừa cà phê với Ngô Đức Hành giờ trước, giờ sau đã thấy anh lên máy bay “đi công chuyện”.
Làng Trảo Nha quê hương của Ngô Đức Kế, (Ngô) Xuân Diệu, (Ngô) Xuân Sách…, là một ngôi làng xinh đẹp chạy dọc theo bờ sông Nghèn, nép dưới chân rú Nghèn, làm thành một thị trấn cũng mang tên “Thị trấn Nghèn”. Đây là miền đất xưa kia vốn là phên dậu của những vương triều “đằng ngoài”. Những cuộc nam tiến chinh phạt các thế lực đằng trong lấn chiếm đất đai đều đi qua đây. Cho đến chiến tranh chống Mỹ cũng vậy, hết thảy những ai cầm súng ra mặt trận cũng đều qua đây, không xa lạ với Nghèn!
Ngô Đức Hành quê ở Nghèn, cũng dòng dõi họ Ngô danh giá. Bạn đọc từng quen với Ngô Đức Hành, một nhà báo nhanh nhạy, sắc sảo quan tâm và lên tiếng kịp thời đến nhiều mặt của đời sống. Anh ra Bắc, vào Nam như con thoi. Vừa cà phê với Ngô Đức Hành giờ trước, giờ sau đã thấy anh lên máy bay “đi công chuyện”.
Công việc làm báo đó cho anh nhiều thứ: Bạn bè khắp nơi, am tường nhiều mặt, hoạt bát vui vẻ, thấm đẫm nắng gió, xa rời kinh viện, trân trọng nghĩa tình… Bạn đọc cũng từng quen với Ngô Đức Hành ở lĩnh vực thơ. Anh đã cho in 8 tập thơ. Và gần đây, tập “Gọi đồng” (NXB Văn học, 2025) vừa đến tay bạn đọc.
Vùng quê Nghèn nói riêng và miền Trung nói chung là vùng đất nổi tiếng khắc nghiệt. Đất cằn cỗi, gió Lào thiêu đốt mùa hạ, bão giật và lũ ngập mùa mưa. Miền đất Dòng sông nào cũng ngắn, nhưng câu hò nào cũng dài (Thanh Tịnh). Ngắn ở đây là sự nghiệt ngã, dài ở đây là tình người. Thiên nhiên càng nghiệt ngã, càng đậm đà tình người.
Ngô Đức Hành cũng nghĩ như vậy: “Quê xưa nghèo người trọng nghĩa nhân” (Ngôi nhà cũ). Tình người ở đây là sự trung thực, sự nhân ái và đặc biệt tính lãng mạn, trữ tình trong tâm hồn, trong ngòi bút, kể từ Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chính Hữu và rất nhiều những cây bút thuộc mọi thế hệ. Điều gì đã làm nên một chữ “tình” đậm đà có vẻ như là “đặc hữu” ấy. Có nhiều điều, nhưng một điều chắc chắn, đó là tình cảm gắn bó với quê nghèo, yêu thương từ gan ruột mảnh đất nơi mình sinh ra. Thơ Ngô Đức Hành cũng trong dòng chảy nhân tình ấy!
Ngô Đức Hành có những câu thơ rất khỏe khoắn: "Chiếc rễ tôi bám chặt rú Nghèn/ Trước mặt tôi dòng sông đơm đầy hoa cơm nguội/ Trước mặt tôi đám lục bình dung dăng chẳng nghĩ gì chìm nổi/ Phía bên kia con sáo mỏi mắt về…/ Rễ tôi cắm đất quê/ Vỉa đá ong mạch nước ngầm thơm bùa trinh tiết/ Giếng Chạ giấu đôi mắt tự tình duy nhất/ Phía đa đoan rắc tím bồng bềnh" (Mạch nguồn).
Ngôn từ bình dị mà chắc chắn, dứt khoát mang sắc thái khẳng định, như một lời nguyện thiêng liêng, lời tự hứa khắc sâu trong lòng của một người con đi xa. Miền đất rú Nghèn cũng như miền Trung dù có vô cùng khắc nghiệt đến đâu, với Ngô Đức Hành là nơi “định vị” tâm hồn anh.
Đây là miền đất mà mỗi người con “Đi xa càng muốn về, khổ đau càng muốn về”. Bởi vì, ở đó Ngô Đức Hành có người cha "Gió Lào rộp phía nụ cười/ Tháng 5 vác nắng, tháng 10 đội đêm/ Chân trần hà rỗ quanh năm/ Trên vai gánh nặng áo cơm quê nghèo" (Tên cha); Mỗi khi nhớ về cha mẹ, với Ngô Đức Hành là hiện lên hình ảnh: "Lưng cha lấm đất quanh năm/ Mẹ như dẻ lúa mà thành quê thôi/ Mùa đông buốt cả nụ cười/ Mùa hè phơi giọt mồ hôi trên đồng" (Cha mẹ); Cha mẹ quanh năm tất bật cho đến ba ngày Tết cũng không hề có một ngày thảnh thơi: "Tết về nhớ mẹ thương cha/ Sáng ba mươi vẫn đồng xa ruộng gần/…Bát cơm khét nắng sũng mưa/ Mồ hôi dấm đủ ngọt chua phía làng/…Có gì buốt nhói trong lòng" (Tết về nhớ mẹ thương cha).
Như bao nhiêu bậc cha mẹ khác, những người sinh thành ra anh suốt đời gắn bó với đất đai sông Nghèn, thức dậy ra đồng khi chưa tỏ mặt người, về nhà đã tối mịt, suốt đời áo tơi nón lá, xới đất lật cỏ nuôi đàn con khôn lớn: "Miền Trung sinh ra tôi trong giọt mồ hôi/ Đất gan gà sắc bong cật nứa/ Giáp hạt tong teo/ Gió Lào rộp cong lãng du hơi thở" (Mồ hôi miền Trung).
Đất Nghèn quê anh với hình sông thế núi như non nước thu gọn ấy, có những con đường nhỏ từ thấp lên cao dần với những trôộc nhà mấp mô đá gan gà, những sớm mai ríu rít bước chân của các chàng trai, cô gái đến trường, cũng là nơi cất giữ của anh bao nhiêu kỷ niệm tuổi trẻ, những điều dù đã đi xa bao nhiêu năm, vẫn luôn luôn thôi thúc anh tìm về:
Anh tìm về đã bấy nhiêu năm
Trôộc nhà em đã thành mặt phố
Gió bồi hồi ngỡ không kịp thở
…Xa xôi rơi
Vào nơi gần gũi
Bàn tay nâng lên tặng nhau buồn tủi
(Hoa mưng)
Kỷ niệm tuổi thơ nào của Ngô Đức Hành cũng thấm thía buồn tủi, cũng hằn lên ấn tượng của những ngày đói kém: "Anh thường về ngồi dưới hàng xoan/ Gọi tên em/ Khi anh đói lòng/ Sau cây dâu da có hàng cơm nguội" (Ngõ nhà anh)
Ngay cả khi lúa đồng đang hứa hẹn một vụ mùa ấm no, trong anh cũng hiện về một thoáng lo âu: "Lúa trổ đòng khoác áo lo âu" (Nhớ làng); Ngay cả khi trên vai đang mang nặng lời hẹn giữa mùa trái chín, cũng tưởng như lạc giọng: "Tôi gánh trên vai/ mùa sim tím/ Gọi tên mình lạc giọng tên em" (Nhớ làng); Ngay cả khi có được một ngày thư thả, cũng ám ảnh bởi sự cong vênh: "Con đường quê hương/ Mây trắng mây xanh bồng bềnh/ Lúc gần lúc xa tưởng tượng/ Cong vênh bánh đa vừng mẹ nướng" (Đám mây quê hương);
Ngay cả khi trong vuông vườn đang xuất hiện những nụ hoa hy vọng, cũng không thoát khỏi nỗi lo toan sấp ngửa: "Hoa cà nhuộm tím góc vườn/ Tháng ba sấp ngửa nỗi buồn đói no" (Nhìn hoa cà nhớ mẹ); Ngay cả khi trên quê hương giữa một đêm trăng sáng, ngọn gió Lào cũng không thôi bỏng rát: "Bốn mùa ngâu ước hẹn/ Ngọn gió Lào rát ngực bờ xanh" (Cánh đồng); Ngay cả trong một buổi sáng tưởng êm lành khi đàn cò trắng đang bay về trên cánh đồng thân thuộc, cũng nhuốm vẻ tang thương: "Sáng nay đàn cò bay về thắp hương/ Khăn xô trắng xóa/ Có lẽ nỗi đau chẳng bao giờ lành" (Ngủ đi cánh đồng)…
Giữa vô vàn những kỷ niệm ấy, đậm nhất trong ám thị của anh là mẹ:
Mẹ tôi nằm phía gió lùa
Áo nâu hai vạt chiêm mùa khét khê
Đường làng bấc thổi tái tê
Đồng quê cỏ mật con đê bụi lầm
(Tên mẹ)
Tất cả các bà mẹ miền Trung của thế hệ anh đều lam lũ như thế. Hình như chưa bao giờ mẹ có được một bữa đủ no, chưa bao giờ mẹ có ngày sinh nhật, chưa được nhận một bông hoa, một lời chúc từ mọi người trong ngày vui…Cho nên nhớ mẹ là nhớ đến nỗi xót xa của những người con lớn lên mất mẹ, chưa được dù chỉ một lần đền đáp công ơn mẹ.
Viết về quê hương nghèo khó, về cha mẹ vất vả, cực nhọc, ngôn ngữ trong thơ Ngô Đức Hành dường như chỉ quẩn quanh, không thoát được với những đa đoan, rộp, rộp cong, vác, đội, hà rỗ, gánh nặng, gió lùa, khét khê, tái tê, sũng mưa, bụi lầm, lấm láp, mồ hôi, vị mặn, cong vênh, tong teo, sấp ngửa (Tháng ba sấp ngửa nỗi buồn)…Cả tập thơ là một tập hợp dồn nén, đậm đặc những ngôn từ tạo nghĩa rất ấn tượng vây bủa tâm tư người đọc. Đây là ngôn ngữ của một vùng đất gian nan, của bà con nhà nông nhọc nhằn, của sự lấm láp bùn đất, của tháng ba ngày tám buồn lo…, gợi lên sự thương cảm!
Nhưng vùng đất nghiệt ngã này đã giữ chân Ngô Đức Hành. Anh như một gốc cây vững chãi cắm rễ xuống đất Nghèn (Chiếc rễ tôi bám chặt rú Nghèn, Rễ tôi cắm đất quê…), như một biểu tượng của nghĩa tình, khí phách và bản lĩnh. Đây là nơi anh nặng lòng thương nhớ, nơi anh vẫn tìm về:
Mẹ là bóng dáng làng quê
Khi con còn mẹ đường về ngắn thôi
(Tên mẹ)
Bởi vì anh biết: "Lũ chúng con nên người/ Nhờ lưng cha thấp xuống…/ Con lớn lên bằng mồ hôi của mẹ cha" (Ngày nào cũng là ngày của cha), "Khu vườn này bóng cha mẹ anh/ Cha che bão giông/ Mẹ làm hạt sương rơi mỗi sáng" (Vườn nhà)…
*
"Gọi đồng", vì vậy, như một bài ca của mục đồng, với ngôn ngữ thân gần, diễn đạt giản dị, nhưng cũng nặng tình nghĩa. Đó là bài ca đầy suy tư sau lũy tre làng, trên cánh đồng chiều, bên dòng sông vắng, trong vườn nhà thân thuộc, trước hoàng hôn đang xuống. Có gì đó lặng thầm, thương cảm, như "Gõ sừng mục tử lại cô thôn" (Bà Huyện Thanh Quan). Nhưng “hơi khí” mà những câu thơ tạo ra ấy rất phù hợp với nội dung trên đây chúng ta điểm qua, những điều mà Ngô Đức Hành miêu tả và biểu hiện.
Tháng 10 năm 2025
