Năm Tỵ, tản mạn chuyện rắn

Thứ Hai, 27/01/2025, 08:11

Trong văn hóa dân gian của người Việt, rắn là một biểu tượng quen thuộc, góp mặt sinh động trong các vỉa tầng của đời sống, phong tục, tín ngưỡng. Từ hình tượng rắn, người đời xưa nay cũng đã khái quát thành những quan niệm, làm đối trọng cho những ví von đa chiều hay nhiều răn dạy thâm thúy...

Từ đời sống đi vào nhiều tín ngưỡng độc đáo

Thật thú vị khi rắn vừa là đại diện cho cái ác, sự hung dữ, gian xảo; nhưng lúc khác lại là biểu tượng của quyền uy, sự che chở hay điều may mắn. Chẳng thế mà bên cạnh sự ghét bỏ, xa lánh, đề phòng loài vật này; con người cũng đồng thời đề cao, phụng sự và gọi bằng “ông bà”, là “thần”, thậm chí là “vua”…

d96f88b7b5eb09b550fa.jpg -0
Tranh rắn của họa sĩ Đào Hải Phong.

Loài rắn, trước hết phải kể đến sự đa dạng về chủng loại, xuất hiện khắp mọi nơi. Tiếng Việt có nhiều từ ngữ để định danh loài rắn: rắn hổ, hổ mang, rắn lục, rắn nước, mãng xà, rắn nập nống, rắn lồng, rắn học trò, hổ lác, hổ hành, hổ ngựa, hổ mây, hổ bướm, rắn cạp nia, rắn cạp nong …

Trong đời sống người Việt từ xa xưa, gắn liền với nền văn minh lúa nước, hình dạng và đặc điểm di chuyển của loài rắn là cơ sở để người nông dân hình dung và đồng nhất rắn với những con sông - nguồn nước bởi nếu nhìn con sông từ trên cao xuống thì rất giống với hình ảnh một con rắn đang bò. Một đặc điểm khác của loài rắn hổ mang khi nổi giận thường phát ra tiếng gió phì phò lại mang ý nghĩa biểu trưng của bão tố. Hình ảnh tia chớp - dấu hiệu của mưa lại tương đồng với lưỡi rắn. Màu sắc và các sọc của loài rắn chính là cơ sở để con người liên hệ rắn với cầu vồng. Các cơn lốc xoáy với hình thù uốn lượn đã được nhân cách hóa thành hình tượng rắn. Loài rắn có đặc tính lột da, do vậy nó còn biểu trưng cho sự tái sinh, bất tử.

Từ đó, biểu tượng rắn thủy thần của người Việt cũng tồn tại song song hai thuộc tính tốt và xấu. Rắn vừa là vị thần nước giúp mưa thuận gió hòa, mang điềm lành và báo điềm dữ. Ngược lại, rắn lại vừa là con vật tinh quái, phá hoại mùa màng và cuộc sống của người dân. Cho dù rắn có mang thuộc tính nào đi chăng nữa thì cư dân vẫn một lòng kính trọng và thờ phụng.

Huyền tích về rắn cũng gắn liền với Đạo Mẫu, liên quan đến nghi lễ cầu thai giúp vạn vật sinh sôi nảy nở. Vì thế, rắn được ví như những vị Mẫu sinh ra và cai quản thế giới, ban lộc cho muôn loài. Xa hơn, rắn gắn liền với truyền thuyết xưa khi Đức Phật cảm hóa được loài rắn, rắn đã nguyện bảo vệ Đức Phật tu hành. Rắn có mặt tốt, mặt xấu nhưng nhờ đức cảm hóa của Phật mà đã đi theo con đường thiện. Vì thế, rắn trong đạo Phật rất linh thiêng, là hình tượng cho sự thiện tâm, tu hành và tính nhân văn của đạo Phật.

Ở một phương diện đời sống khác, cũng chẳng lạ lẫm khi ta bắt gặp rắn được ngâm rượu với chức năng làm các vị thuốc trong đông y chữa bệnh cho con người như phong thấp, thần kinh, đau nhức, tê liệt… , và thậm chí rắn còn là đặc sản trên bàn nhậu của người dân sông nước đến quán xá chốn thị thành…

Một biểu tượng sinh động trong văn hóa dân gian

Dù ghét bỏ, sợ hãi hay được trọng vọng, tôn vinh; không thể phủ nhận vai trò của rắn và sự góp mặt của loài vật này làm phong phú các vỉa tầng quan niệm. Người ta dựa vào rắn để nói về người; để bình phẩm về tính cách, lối sống; để khái quát thành những lời răn dạy hay để châm biếm, mỉa mai…

Những người có tính cách thẳng thắn thường được ví “thẳng như rắn bò”; kẻ trâng tráo, mắt luôn thao láo liếc ngang, nhìn dọc thì “thao láo như mắt rắn ráo”; những kẻ hay kêu la, than vãn có “oai oái như rắn bắt nhái”; người hay gân cổ cãi thì “bạnh cổ như cổ hổ mang”. Ngoài ra, hành động lén lút, sợ sệt thường được ví là “len lét như rắn mùng năm”; kẻ hay bịa đặt, ba hoa quá sự thật được nhìn nhận là “vẽ rắn thêm chân”; cảnh báo nơi hiểm nguy có “hang hùm miệng rắn”; những kẻ phản bội bị lên án là “cõng rắn cắn gà nhà”...

Trong kho tàng văn học dân gian của người lao động xưa, ta bắt gặp vô số những hình ảnh rắn được đề cập: “Bao giờ cho đến tháng ba/Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng”; “Rồng rắn lên cây, có cây núc nác, có nhà hiển vinh”; “Hễ đi gặp rắn thì may/Về nhà gặp rắn thì hay phải đòn”; “Cha hổ mang đẻ con liu điu”, “Liu điu lại nở ra dòng liu điu”.

Từ một loài vật có thật, rắn trong tâm thức dân gian từ lâu đã khái quát thành những triết lý, lời răn đầy thâm thúy: “Rắn mất đầu” (không còn người lãnh đạo); “Hùm tha rắn cắn” (không gặp tai ương này thì gặp hoạn nạn khác); “Khẩu Phật tâm xà” (ám chỉ kẻ đạo đức giả, miệng nói thương người nhưng lòng dạ hiểm ác); “Khẩu xà tâm Phật” (người ngoài miệng bốp chát nóng nảy, nhưng bản chất bao dung, nhân đức); “Xà cung thạch hổ” (những kẻ hay nghi ngờ quàng xiên, thấy cây cung nghĩ là rắn độc, thấy hòn đá ngờ là cọp dữ); “Đầu rắn mắt chuột” (ý nói người gian xảo); “Đánh rắn đánh dập đầu” (sử dụng đòn chí mạng đối với kẻ hung ác để khỏi bị báo thù).

Thật khó để liệt kê hết sự hiện diện của loài rắn với vai trò là đối trọng để nói về con người và lẽ sống nhân sinh. Dù là hiện thân của cái ác, điều xấu nhưng đâu đó loài rắn vẫn được thần thánh hóa gọi là “ông”, là “bà”, là “ngài”… như một tín ngưỡng tâm linh hết sức độc đáo.

Đón Tết Ất Tỵ, mạo muội có đôi dòng mạn đàm về loài rắn, những mong góp thêm câu chuyện nhỏ cho ta thêm chút ngẫm nghĩ về thế thái nhân tình lúc trà dư tửu hậu ngày xuân...

Ngô Thế Lâm
.
.