Một bức tranh toàn cảnh về mỹ thuật Việt Nam hiện đại
Sau "Nhà và Người" (NXB Hội Nhà văn, 2024), "Trò chuyện với hội họa" là cuốn sách thứ 2 trong bộ sách 4 cuốn của họa sĩ Lê Thiết Cương, dự định lần lượt ra mắt bạn đọc trong 3 năm 2024-2026.
"Trò chuyện với hội họa" in trên khổ 18x24cm, dày 540 trang được chia làm 3 chương: Chương 1, Mỹ thuật Đông Dương và Khóa Kháng chiến Tô Ngọc Vân gồm 12 bài viết; Chương 2, Giai đoạn tiếp theo đến thời Đổi mới và Hậu đổi mới gồm 44 bài viết; Chương 3, Những câu chuyện chung về mỹ thuật gồm 9 bài viết.

Có thể nói, với gần 70 bài viết trong tác phẩm này, Lê Thiết Cương đã thâu tóm toàn bộ lịch sử mỹ thuật Việt Nam trong vòng 100 năm (1925-2025), bắt đầu tính từ mốc thành lập Trường Mỹ thuật Đông Dương.
Theo đó, lịch sử mỹ thuật Việt Nam có thể chia ra 3 giai đoạn lớn: Giai đoạn 1925-1945 là giai đoạn Mỹ thuật Đông Dương, giai đoạn 1945-1975 là giai đoạn mỹ thuật thời chiến, giai đoạn từ 1986 đến nay là giai đoạn Đổi mới. Còn lại một giai đoạn nhỏ 1975-1985 được đánh giá về bản chất là giai đoạn mỹ thuật thời chiến nối dài.
Trong từng giai đoạn, Lê Thiết Cương đã giới thiệu, phân tích các chân dung họa sĩ tiêu biểu với những phong cách đặc sắc, riêng biệt, góp phần làm nên diện mạo của từng thời kỳ trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam hiện đại.
Trong chương 1, với bộ tứ bậc thầy Nghiêm, Liên, Sáng, Phái, tác giả khẳng định Nguyễn Tư Nghiêm là người đã chuyển ngữ thành công mỹ thuật truyền thống ra ngôn ngữ hiện đại, ông kế thừa được không khí nhịp điệu của hoa văn trên trống đồng Đông Sơn.
Nguyễn Tư Nghiêm cả đời chỉ làm việc với 4 đề tài chính: Ông Gióng, 12 con giáp, điệu múa cổ và Kiều - Kim Trọng. Về chất liệu, Nguyễn Tư Nghiêm ưa thích sơn mài và bột màu trên giấy. Hội họa của ông mang vẻ đẹp hồn hậu, dung dị, mộc mạc, không cốt tả thật mà chỉ chú trọng vào gợi với cách nhìn hồn nhiên. Bảng màu của ông gợi về nông thôn với những mái rạ, tường trình, sân rêu, bùn non, vàng rơm, cốm non…
Với Dương Bích Liên, Lê Thiết Cương kể về ông qua một tác phẩm tiêu biểu. Đó là "Hào", bức tranh với kích thước lớn nhất (147cmx200cm) trong sự nghiệp sáng tác của Dương Bích Liên. "Hào" là một cách hiểu khác, một góc nhìn khác về chiến tranh, duy nhất và độc đáo. Tất cả các giao thông "Hào" dọc ngang đều đi về và gặp nhau ở đường chân trời là một khoảng màu sáng nhất trong tranh, nằm ở trên cùng. Đó phải chăng cũng là một niềm tin mãnh liệt về kết thúc tươi đẹp sắp đến?
Với Nguyễn Sáng, tác phẩm xuất sắc nhất của ông là "Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ", khổ 112.3cmx180cm. Một buổi sớm kết nạp Đảng dưới chân núi, lá cờ đỏ búa liềm thấp thoáng, không cần bàn ghế, mọi người đều đứng, vẫn ôm súng, đeo ba lô, đội mũ, nhân vật trung tâm bị thương quấn băng quanh đầu, còn lại tất cả các nhân vật khác đều được khắc họa trong trạng thái đang chuyển động. Tác phẩm được thể hiện một cách giản dị trong không gian nén chặt, cho người xem cảm nhận được sâu sắc về sự khốc liệt căng thẳng của chiến tranh đồng thời tôn vinh tinh thần quả cảm sắt son của con người.
Với Bùi Xuân Phái, ông là người đầu tiên nhìn ra vẻ đẹp của phố cổ, của mái ngói thâm nâu, từ đó chuyển ngữ vẻ đẹp ấy thành hội họa. Bùi Xuân Phái đã tạo thêm một phố cổ nữa ngoài 36 phố, đó là Phố Phái. Tình yêu Hà Nội của ông đã vượt qua sợ hãi, vượt qua đạn bom, vượt qua cả cái chết.

Sau bộ tứ Nghiêm, Liên, Sáng, Phái, một loạt các chân dung khác được Lê Thiết Cương gọi tên. Đó là Nguyễn Gia Trí với tuyệt tác "Vườn xuân Trung Nam Bắc", Nguyễn Phan Chánh với những bức tranh lụa sở trường, đưa một thể loại từ mỹ nghệ lên thành mỹ thuật, Văn Cao với những đóng góp quan trọng cho mỹ thuật hiện đại ở ba mảng hội họa - đồ họa - minh họa, Đặng Đình Hưng với những hình chữ, Đào Đức với các bức ký họa kháng chiến, Lưu Công Nhân sở trường về nét, kết hợp hài hòa hai yếu tố bình dị quê mùa với "Hào" hoa sang trọng, Trần Lưu Hậu với thế mạnh nét màu, không phân biệt hình và nền, tất cả đều là một nét.
Sang chương 2, Lê Thiết Cương tiếp tục giới thiệu những họa sĩ của thời kỳ tiếp theo, từ Đổi mới đến Hậu đổi mới. Đó là Nguyễn Hải, Trần Trung Tín, Nguyễn Quốc Thái, Phạm Lực, Nguyễn Trịnh Thái, Lý Trực Sơn, Trịnh Tú, Đỗ Sơn, Trọng Đoan - Bảo Toàn, Nguyễn Xuân Tiệp, Phan Phương Đông, Từ Duy, Sơn Lâm, Đinh Ý Nhi, Nguyễn Khánh Toàn, Văn Ngọc, Hà Trí Hiếu, Lê Đình Nguyên, Hoàng Phượng Vỹ, Đào Hải Phong, Đinh Công Đạt, Lê Kinh Tài, Lý Trần Quỳnh Giang, Minh Tâm - Trần Quân, Mai Duy Minh, Vũ Bích Thủy, Đinh Thị Thắm Poong, Lập Phương, Bùi Thanh Thủy, Phương Bình, 4 nữ họa sĩ của nhóm G39 (Phương Liên, Chinh Lê, Bình Nhi, Hồng Phương), Phạm Bình Chương, Trương Tiến Trà, Nguyễn Quốc Thắng, Đỗ Hiệp, Đoàn Đức Hùng, Chu Hồng Tiến, Trần Nhật Thăng, Nguyễn Thế Dung…
Điều quan trọng là Lê Thiết Cương có khả năng đọc vị từng người một, chỉ ra nét riêng, chất riêng, cái không thể trộn lẫn của họ, cái phân biệt họ với những nghệ sĩ khác. Nguyễn Hải sở trường với gióng tre, Trần Trung Tín vẽ như không vẽ, Nguyễn Quốc Thái xuyên suốt với hai chủ đề chiến tranh và hòa bình, Phạm Lực với tạng tính sông nước - chất biển, Trịnh Thái với độ nhòe ẩm ướt bảng lảng khói sương, Đỗ Sơn với cái đẹp gân guốc thô nhám, Nguyễn Xuân Tiệp thủy chung với giấy dó, Phan Phương Đông chọn chất liệu mica trong không màu cho những tác phẩm điêu khắc, Từ Duy với tinh thần mỹ học Chàm hoan lạc và u buồn, Lê Đình Nguyên chọn trâu làm đề tài duy nhất, Hoàng Phượng Vỹ với những giấc mơ trong hội họa, Đào Hải Phong trong cơn đói màu khát màu, Đinh Công Đạt mê đắm với đề tài côn trùng, Lê Kinh Tài và sự pha trộn của nhiều loại hình, Lý Trần Quỳnh Giang vẽ bằng lục phủ ngũ tạng, Mai Duy Minh song hành cả hiện thực và siêu thực, Đinh Thị Thắm Poong theo lối đồng hiện, hòa sắc giữa Kinh và Thái; Phương Bình vẽ kiểu thủy mặc thảo thư, được ăn cả ngã về không, Phạm Bình Chương với một lối riêng khi vẽ về Hà Nội, Trần Nhật Thăng hòa quyện giữa trừu tượng và hiện thực, Nguyễn Thế Dung trở đi trở lại với biểu tượng con bò…
Cũng trong chương 2 này, Lê Thiết Cương còn dành những trang để viết về những họa sĩ tương đối đặc biệt, đó là những người vốn xuất thân không phải được đào tạo về hội họa nhưng họ đã vẽ theo một cách riêng của mình.
Đó là một Trịnh Công Sơn với những giai điệu màu, một người viết bằng màu để cho âm nhạc - thi ca - hội họa hòa làm một. Nguyễn Quang Thiều và hình tượng người thổi sáo trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm, thậm chí người thổi sáo thì mù còn sáo thì không có lỗ như để ẩn dụ cho sự đối thoại với chính mình, Hữu Ước đến với hội họa như để có thêm một đời sống khác, Võ Thị Hảo đến với hội họa trong một tinh thần tự do cùng một chút lần đầu, một chút điên dại, một chút vô chiêu, một chút liều lĩnh, một chút núi lửa, một chút vụng về.
Ở chương 3, chương cuối cùng, Những câu chuyện chung về nghệ thuật, Lê Thiết Cương mang đến những đánh giá, tổng kết, nhận định quan trọng. Tác giả khẳng định ý nghĩa to lớn của bộ tem về chân dung Hồ Chủ tịch do họa sĩ Nguyễn Sáng thiết kế. Ông cũng là người con miền Nam đầu tiên vẽ chân dung Bác.
Với những bức tranh cổ động giai đoạn 1945-1975, Lê Thiết Cương cho rằng, ở đó, lịch sử mỹ thuật và lịch sử dân tộc luôn trùng khít. Những bức ký họa chiến tranh là thể loại đặc thù của hội họa Việt Nam, chỉ chiến tranh Việt Nam mới sản sinh ra nhiều tác phẩm ký họa đến thế. Nền mỹ thuật Việt Nam còn tạo ra một thể loại độc đáo là truyền thần. Từ chỗ chỉ vẽ người đã mất để làm tranh thờ, truyền thần đã mở rộng sang vẽ cả những người sống để làm kỷ niệm hoặc với mục đích trang trí.
Lê Thiết Cương cũng bày tỏ quan điểm của mình về hội họa hiện thực, quan điểm về những tác phẩm minh họa, nhìn lại về đề tài phụ nữ trong tiến trình mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Ở bài viết cuối cùng, Mỹ thuật dục tình Việt Nam, Lê Thiết Cương đã chỉ ra nét độc đáo có một không hai của người Việt, đó là đề tài tình dục không những có từ rất sớm trên nắp thạp đồng Đào Thịnh mà còn được trình bày ở nơi đình làng là chốn tôn nghiêm, là nơi công cộng chứ không phải ở tư gia. Trong không gian ấy, người phụ nữ luôn được tạo hình ở tư thế tự nhiên nhất.
Khép lại cuốn sách "Trò chuyện với hội họa", có thể nói người đọc được tiếp nhận một lượng tri thức lớn, phong phú và xuyên suốt về hành trình một thế kỷ của mỹ thuật Việt Nam. Tuy thế, tôi dường như thấy vẫn còn thiếu một điều. Đó là họa sĩ Lê Thiết Cương đã quên nói về mình bởi chính anh cũng là một phong cách độc đáo của mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Tôi mong trong một ngày không xa sẽ được đọc những tâm sự về con đường hội họa của chính anh, người đã tạo cho mình một phong cách tối giản độc đáo và đặc sắc.