Lưu Gia độ - Một bài thơ trữ tình đặc sắc của Trần Quang Khải
Chiêu Minh Vương, Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải (1248-1294) là một vị Hoàng tử thứ 2 dòng đích của Thái Tông Trần Cảnh, do Hoàng hậu Thuận Thiên sinh ra. Hơn thế, ông còn là danh thần, danh sĩ, văn võ song toàn của triều đại nhà Trần.
"LƯU GIA ĐỘ"
Lưu Gia độ khẩu thụ tham thiên,
Hỗ tụng đông hành tích bạc thuyền.
Cựu tháp giang đình thu thủy thượng,
Hoang từ cổ trủng thạch lân tiền.
Thái bình đồ chí kỷ thiên lý
Lý đại quan hà kỷ bách niên.
Thi khách trùng lai đầu phát bạch
Mai hoa như tuyết chiếu tình xuyên.
Dịch nghĩa:
BẾN ĐÒ LƯU GIA
Bến đò Lưu Gia, cây cao ngất trời
Xưa phò giá sang đông, ta từng đỗ thuyền nơi đây.
Tháp cũ đình xưa ngất ngưởng bên dòng sông thu
Đền hoang mộ cổ thờ ơ trước con lân đá.
Bản đồ Thái Bình rộng mấy ngàn dặm,
Non sông nhà Lý trải hai trăm năm.
Khách thơ trở lại đầu đã bạc,
Hoa mai như tuyết chiếu xuống lòng sông thu buổi trời nắng.
Dịch thơ:
Lưu Gia cây cao ngất trời,
Bến xưa ta hộ giá Người sang Đông.
Tháp đình ngất ngưởng bên sông,
Đền hoang mộ cổ lân không đoái hoài.
Mênh mông phủ Thái rộng dài,
Non sông nhà Lý trải vài trăm năm.
Bạc đầu nay lại về thăm,
Hoa mai như tuyết sáng lòng sông thu.
(VŨ BÌNH LỤC dịch)

Chiêu Minh Vương, Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải (1248-1294) là một vị Hoàng tử thứ 2 dòng đích của Thái Tông Trần Cảnh, do Hoàng hậu Thuận Thiên sinh ra. Hơn thế, ông còn là danh thần, danh sĩ, văn võ song toàn của triều đại nhà Trần. Đặc biệt hơn nữa, Trần Quang Khải còn là thi sĩ, một nghệ sĩ lớn, đứng vào hàng đầu trong nền văn chương xuất sắc đời Trần và cả ngàn năm văn chương Đại Việt thời kỳ trung đại.
Cùng với Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải sớm trở thành nhân vật trụ cột của cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 2 và 3. Công lao lớn, Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang Khải được phong tới chức Thượng tướng (chức vụ cao nhất trong quân đội thời Trần), Thái Sư đứng đầu trăm quan ở triều đình.
Thơ văn Trần Quang Khải hiện tìm thấy không nhiều. Số phận các tác phẩm nghệ thuật của ông, cùng chung với số phận của rất nhiều tác giả đời Lý-Trần, khi giặc Minh xâm lược vô cùng tàn bạo tràn sang tàn sát dân ta, triệt phá nền văn hóa của nước ta (1407). Tuy nhiên, chỉ với mấy bài thơ tiêu biểu còn lại đến ngày nay, cũng đủ thấy ông là một nhà thơ lớn, có vị trí xứng đáng trong văn chương Lý-Trần.
Căn cứ vào nội dung, có thể ước đoán bài thơ "Lưu Gia Độ" (Bến đò Lưu Gia) được tác giả viết khoảng sau cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược lần thứ ba (1288), khi Trần Quang Khải tuổi đã cao, tóc đã bạc. Ông trở lại bến đò Lưu Gia, huyện Ngự Thiên, phủ Long Hưng, nay thuộc huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình, trong một chuyến về thăm nơi phát tích và hưng nghiệp của triều Trần, với đầy vơi nỗi niềm hoài cổ.
Bến đò Lưu Gia, cây cao ngất trời
Xưa phò giá sang Đông, ta từng đỗ thuyền nơi đây.
Có một điều chắc chắn, rằng Trần Quang Khải về Long Hưng bằng đường thủy, từ Thăng Long, xuôi thuyền theo dòng sông Luộc (một nhánh của hệ thống sông Hồng) về bến đò Lưu Gia. Bờ bên kia, thuộc tỉnh Hưng Yên.
Lưu Gia, tức ở đây có làng Lưu Xá, quê hương của hai vị đại công thần khai quốc triều Hậu Lý (1099-1225). Đó chính là Thái úy Lưu Khánh Đàm (989-1058) và Thái phó Lưu Khánh Điều.
Ngay khi thuyền vừa cập bến Lưu Gia, cảnh vật đầu tiên mà tác giả nhìn thấy, chính là một chòm xanh, với nhiều cổ thụ um tùm, "cao ngất trời". Đó chính là dấu ấn một vùng đất cổ, địa linh nhân kiệt. Nơi đây có đền thờ, miếu mạo và chùa chiền, nơi sinh ra những vị khai quốc công thần triều Hậu Lý, như Lưu Khánh Đàm, Lưu Điều… Các vị tiên tổ nhà Trần, từ cụ Trần Thừa trở lại, cũng được sinh ra và khi mất, cũng được an táng tại đất Thái Đường Long Hưng này.
Nhìn cảnh, lại nhớ xưa, một thời binh lửa gian lao. Chính tác giả là người trực tiếp đảm nhận trọng trách "phò giá sang đông" (hỗ tụng Đông hành), khi quân Nguyên Mông cường bạo tiến quân như vũ bão xuống Thăng Long, quyết làm cỏ nước Đại Việt ta! Đó chính là cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285) chống quân xâm lược Nguyên Mông vô cùng gian khổ và khốc liệt. Vận mệnh đất nước tưởng ngàn cân treo sợi tóc.
Triều đình phải thực hiện kế sách "Vườn không nhà trống", tạm bỏ Thăng Long cho giặc chiếm đóng, rồi lui về Long Hưng để bảo toàn vương tộc, bảo toàn lực lượng, chờ dịp phản công.
Từ Long Hưng, Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cùng hai vua (Thánh Tông, Nhân Tông) lại xuôi thuyền về căn cứ địa chiến lược "Lưu quân đồn trú" (Lưu Đồn), thuộc miền ven biển Thái Bình. Tại đây, đã có sẵn một chiến khu bí mật, được xây dựng và tổ chức rất chu đáo, để Tiết chế Hưng Đạo Vương và hai vua Trần ngự tại đây, chỉ đạo và điều hành cuộc kháng chiến chống giặc Mông Nguyên lần thứ 2 (1285) và lần thứ 3 (1287-1288).
Lưu Đồn, chính là chiến khu bí mật của triều Trần. Cả triều đình đủ các bộ ngành, hai ban Văn - Võ và tướng sĩ đã sống ở đây trong nhiều năm, chiến đấu, đánh thắng trận Bạch Đằng lịch sử. Chiến khu Lưu Đồn (Lưu quân đồn trú) bí mật đến mức chính sử cũng không được phép biết để ghi chép. Gần đây, chúng tôi đã có tư liệu cuốn Thần phả Lưu Đồn, rất hữu ích cho việc nghiên cứu lịch sử chiến đấu chống đế quốc Nguyên Mông lần thứ hai và thứ ba của quân dân triều Trần.
Tại bến đò Lưu Gia này, tác giả nhớ lại chuyện xưa. Quá khứ và hiện thực đang bày ra trước mắt, khiến thi nhân bùi ngùi thương cảm. Đó chính là cảnh: "Tháp cũ đình xưa ngất ngưởng bên dòng sông thu", rồi thì cảnh: "Đền hoang mộ cổ thơ ơ trước con lân đá". Đã khoảng 2.500 năm, kể từ thời khởi dựng triều Hậu Lý, ngôi đền thờ hai vị đại công thần khai quốc Lưu Khánh Đàm và Lưu Khánh Điều, nay đã trở thành hoang tích, lạnh lẽo. Cảnh vật hoang lương tàn tạ, khiến lòng thi nhân bồi hồi xao xuyến.
Tháp cũ đình xưa ngất ngưởng bên dòng sông thu,
Đền hoang mộ cổ thờ ơ trước con lân đá.
Như vậy là cả một quần thể tháp cũ đình xưa hoành tráng uy nghiêm ngất ngưởng là thế, nay trầm mặc u buồn, hoang lương ảm đạm. Trải hơn vài trăm năm mưa gió, rồi chiến tranh trận mạc liên miên, cây cối thành ra cổ thụ um tùm, đền đài miếu mạo đổ nát điêu tàn. Đó chính là hình ảnh còn lại của một dĩ vãng xa xôi, một thời vàng son đổ bóng xuống dòng sông thu, gợi nhiều trắc ẩn, bồi hồi.
Các câu 5 và 6, luận về thời thế phế hưng:
Bản đồ Thái Bình rộng mấy nghìn dặm,
Non sông nhà Lý trải hai trăm năm.
Đó là sự đối lập giữa không gian địa lý rộng lớn, thuộc về cái vĩnh cửu, với cái hữu hạn vài trăm năm của triều đại nhà Lý vàng son rực rỡ. Phủ Thái Bình xưa, nay thuộc tỉnh Thái Bình, có đất Lưu Gia lịch sử, địa linh nhân kiệt, có từ thời Đinh, Tiền Lê và Hậu Lý. Đến đời nhà Trần lại sinh ra người con gái tài sắc Trần Thị Dung, sau là Hoàng hậu của vua Lý Huệ Tông. Bà cũng chính là người đã có công rất lớn trong cuộc chuyển giao hai triều đại lịch sử Lý-Trần, tạo ra bước ngoặt vĩ đại của dân tộc.
Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, bà lại có công chỉ huy tôn thất nhà Trần sơ tán khỏi kinh thành Thăng Long một cách ngoạn mục. Hơn thế, "Linh Từ Quốc Mẫu" Trần Thị Dung còn chỉ huy dân binh cung cấp binh lương cho quân đội đang chiến đấu với quân Nguyên trên khắp các chiến trường.
Hai câu cuối, kết thúc bài thơ thất ngôn bát cú luật Đường:
Khách thơ trở lại đầu đã bạc,
Hoa mai như tuyết chiếu xuống lòng sông thu buổi trời nắng.
Quả là tương ứng, tương phùng thú vị. Người trở lại bến sông xưa, sau bao vất vả việc quân việc nước, mái đầu đã nở đầy mai trắng, bây giờ như một khách thơ, lại bất ngờ gặp gỡ "Mai hoa như tuyết, chiếu xuống lòng sông thu buổi trời nắng"!
Một ngẫu nhiên chăng, hay là sự sắp đặt của trời đất? Người lính già đầu bạc của thời Nguyên Phong oanh liệt còn đây, chắc lòng đang phấn khích khi lũ lượt hoa mai chào đón hân hoan. Hoa mai trắng ngần như tuyết, chiếu xuống lòng sông thu, sáng lên một khoảng trời thu bát ngát.
Một hình ảnh thật đẹp, không hề ước lệ. Nó gần gũi thân thương biết mấy. Hồn mai với hồn người tương giao hòa hợp và dường như có phần viên mãn, làm tiêu tan cái hoang lương u ẩn lúc ban đầu.
"Lưu Gia Độ" là một bài thơ luật Đường khá chuẩn mực, hơi khác với những bài thơ luật đã được Việt hóa sau này của Nguyễn Trãi, gần hơn là của Cao Bá Quát. Ý thơ ngổn ngang từ trực quan này đến trực quan khác, cảnh tình đan xen hòa quyện. Cảm xúc từ u hoài hoang lương, chuyển dần sang tươi sáng. Một bài thơ tám câu, mà thấy hiện lên bóng dáng mấy trăm năm hưng phế, thông qua một địa danh lịch sử có nhiều quan hệ với vận mệnh dân tộc.
Với "Tụng giá hoàn kinh sư", với "Phúc Hưng viên", "Xuân cảm" và thêm nữa, "Lưu Gia Độ" của Trần Quang Khải như thể một tứ ca, đã ung dung dắt tay nhau mà đi mãi vào bất tử!...