Đinh Thị Như Thúy - gương mặt của tiếng thơ nữ quyền
Trong bản đồ thơ nữ Việt Nam hôm nay, Đinh Thị Như Thúy mang đến một gương mặt của tiếng thơ nữ quyền, một tiếng nói “tối giản tỉnh thức” nhưng không ồn ào tuyên ngôn, không phô trương kỹ xảo, mà kiến tạo một mỹ học của im lặng và phục sinh.
Nếu như nhà thơ Ý Nhi nâng cao chất trầm tĩnh trí tuệ của thi ca, nhà thơ Như Bình tìm cách vượt qua nỗi hoang mang trầm cảm của hiện sinh đô thị, thì nhà thơ Đinh Thị Như Thúy đi một lối rẽ riêng với kháng cự mềm bằng nhịp thở, bằng biểu tượng đời thường được tinh luyện thành “ngôn ngữ của vết thương đã biết tự lành”.
Đặc trưng thi pháp nổi bật trong tập thơ “Trong những ngày đợi quên” mới xuất bản của chị là sự tối giản hình ảnh, tối đa vang âm nhưng mỗi chi tiết đều mang tải trọng biểu tượng cao và sự kiệm lời mở ra khoảng trống để người đọc tự cộng hưởng.
Nhịp điệu thiền của thi ca với quyền được im lặng
Đáng chú ý, thơ Đinh Thị Như Thúy giữ được nhịp điệu thiền và “quyền được im lặng” với những câu thơ ngắn, ngắt dòng liên tục, điệp nghịch lý biến trang giấy thành không gian thở. Đây là thi pháp định hình một đạo sống hơn là chỉ phát biểu cảm xúc. Bên cạnh đó là mỹ cảm của thương tích và phục sinh khi bề mặt là “vết sẹo đô thị” và chiều sâu tinh thần là năng lực hồi phục. Thơ không né tránh tổn thương, mà nâng cấp nó thành tri thức sống.
Đặc điểm này thể hiện khá rõ trong bài thơ “Xác thuyền” sau đây: “Mất khả năng nghe mưa/ Chúng ta khước từ cơ hội/ Chạm mặt /Với nỗi buồn từng mong/ Giờ đây/ Trong thế giới thảm hại của chúng ta/ Thế giới nặng ám những rủa nguyền/ Tất thảy ý nghĩa của đời sống con người/ Chỉ còn là hủy diệt/ Tất thảy niềm vui bị rút kiệt/ Chỉ còn chiếc bình gốm vỡ/ Không bông hoa/ Chỉ còn xác thuyền trên bãi lạnh/ Những rùng mình sấp mặt/ Sóng/ Cát /Chôn vùi”.
Bài “Xác thuyền” chính là tứ thơ của phế tích và mỹ học của kiệt quệ, phát khởi từ hai phế tích song song: “chiếc bình gốm vỡ/ không bông hoa” và “xác thuyền trên bãi lạnh”. Trước đó, một phán đoán lạnh buốt được nén lại: “tất thảy ý nghĩa của đời sống con người chỉ còn là hủy diệt/ tất thảy niềm vui bị rút kiệt”.
Cấu trúc của tứ thơ đi từ đánh mất cảm năng (mất khả năng nghe mưa) đến từ chối đối diện (khước từ cơ hội chạm mặt nỗi buồn) và kết cảnh “phế tích đôi” làm biểu tượng cho sự cạn kiệt ý nghĩa. Cái đích của thi pháp này nhằm giảm âm vang cảm xúc, tăng lực biểu tượng của vật thể với câu thơ cắt ngắn, xuống hàng để mở khoảng trống cho nỗi buồn “tự thở”. Trường mỹ cảm tuy u ám nhưng không phải để tuyệt vọng mà để trung thực hóa tình trạng tinh thần khi vui buồn đều bị “rút kiệt”, điều còn lại là vỏ (xác/bình) như một tri nhận hiện sinh thẳng thắn.
Bước ra khỏi không gian trầm uất của “Xác thuyền” ta đến với tứ thơ hành hương của mỹ cảm thiền trong bài: “Sáng mùng một lên chùa Linh Ứng” với các biểu tượng của sự an trú: “Họ đi trong bóng râm của cây cầu/ Những sắt thép nói lời cứng cỏi/ Họ biết ngày mai mặt trời vẫn mọc/ Như vạn ngàn ân sủng/ Cho sự sống mãi còn/ Càng lên cao không gian càng mở ra mát rượi/ Họ ngồi dưới gốc bồ đề/ Lá chuốt hình tim huyền bí/ Những đôi mắt khép hờ nhìn xuống/ Những đôi môi mỉm nhẹ nụ cười/ Biết mà không biết/ Có mà không có/ Đau mà không đau/ Rơi xuống tự trời sâu/ Một bầy hoa xanh đang chờ tay người cắm”.
Cấu trúc của tứ thơ chuyển động lên cao (càng lên cao… càng mát rượi) rồi ngồi dưới bồ đề với tam đoạn nghịch lý “biết mà không biết/ có mà không có/ đau mà không đau” và “một bầy hoa xanh” rơi xuống tay người. Thi pháp với ngôn ngữ của những câu hỏi về thiền, đối sánh nghịch lý để hóa giải sự bám chấp, kết bằng ân sủng của màu xanh của tái sinh. Với trường mỹ cảm của tôn giáo đời thường, việc đi chùa như một nghi thức hít thở lại khi cái “biết” ở đây là biết bằng trải nghiệm thân-tâm chứ không phải mệnh đề.
Thơ Đinh Thị Như Thúy đặt ra vấn đề từ “nữ quyền ồn ào” đến “nữ quyền tỉnh thức”. Trong văn cảnh thơ Việt đương đại, tiếng nói nữ quyền không chỉ là những tuyên ngôn đối đầu trực diện, mà còn là một mỹ học sống trong lựa chọn cách hiện diện, cách chăm sóc và cách hồi phục của người nữ giữa đô thị nhiều đứt gãy.
Tập thơ “Trong những ngày đợi quên” kiến tạo kiểu nữ quyền ấy qua nhịp điệu kiệm lời, qua các nghi thức nhỏ (uống trà, đốt trầm, hít thở, đi chùa, ngồi yên), qua hình ảnh của nhà - phòng - vườn - thân thể - hơi thở. Sức mạnh ở đây đến từ khả năng đặt tên nỗi đau, chấp nhận thương tích, rồi chuyển hóa nó bằng một đạo sống bền bỉ.
Trong thơ chị, đô thị như văn bản cần “đọc” khi thành phố không phải phông nền mà là một văn bản cảm giác của tiếng sóng, tiếng chổi, tiếng bồ câu, mùi gỗ, trầm và sách. Nhà thơ giảm thị giác, tăng thính giác/khứu giác/xúc giác để chống lại sự ồn ã của thời đại.
Giọng điệu thơ hiền và trầm, tránh bi kịch hóa, tránh lên gân phẫn nộ, thay vào đó là kỷ luật của sự nhìn, nghe và gọi tên. Sự hiền ở đây không là nhún nhường, mà là độ chín của kiểm soát cảm xúc. So với thơ nữ truyền thống trữ tình, thơ Đinh Thị Như Thúy cập nhật tinh thần chánh niệm và ngôn ngữ của trị liệu tinh thần, phù hợp hậu cảnh của khủng hoảng và đại dịch.
Thi pháp ẩn dụ trong trường mỹ cảm của thương tích
Với trường mỹ cảm của thương tích được thanh tẩy, bài thơ “ Phục sinh màu lá” của tác giả cho thấy “lá xanh” là dấu chỉ sau cùng của sức bền tinh thần: “ Tôi là mưa một buổi sáng cuối mùa/ Trong căn phòng khép cửa/ Tôi rơi cùng tiếng sấm/ Tôi chảy trôi theo các con đường/ Tôi mang trong mình xác phượng đỏ bầm/ Xác ve sầu buồn bã/ Xác lá khô và rác thị thành/ Tôi bình yên/ Tôi không bình yên/ Tôi trong suốt vì đã quá lâu im lặng/ Tôi không còn làn da để tái nhợt/ Để nóng ran khi nghĩ về anh/ Tôi choáng váng đã quá gần với biển/ Dạt dào tiếng mưa trong khô hạn/ Chảy tràn tâm trí tôi/ Cơn bão phục sinh đang quét qua thành phố/ Nơi tôi mọc lên những lá xanh”.
Với tứ thơ hóa thân: “tôi là mưa”, tác giả để một “tôi - mưa” chảy qua thành phố, mang theo xác phượng, xác ve, rác thị thành. Đây là cấu trúc của tứ thơ tự sự cảm giác (tôi là mưa), tự phân đôi (tôi bình yên/ không bình yên) khi cơn bão phục sinh quét qua “nơi tôi mọc lên những lá xanh”. Thi pháp hóa thân này đồng nhất cái tôi vào chất liệu tự nhiên để gột rửa, đối ngẫu cảm xúc (bình yên/không bình yên) như một kỹ thuật nhận diện trạng thái.
Trong lời tự bạch mở đầu tập thơ, tác giả cho biết: “Mỗi bài thơ trong tập này là một lát cắt “Trong những ngày đợi quên” của tôi. Là khoảnh khắc tôi ngồi xuống và thành thật với cảm xúc của mình. Có thể là một nỗi buồn cũ, một ký ức tưởng đã nguôi. Có thể là một nụ cười nhỏ mà tôi đã cố giữ lại giữa những u tối mơ hồ.
Tôi tin rằng, dù bạn đang ở đâu, đã từng trải hay đang bước qua buồn vui nào, bạn cũng sẽ có đôi chút đồng cảm với tôi. Bởi có ai trong chúng ta chưa từng có một vài ngày đợi quên?”. Lời mở nói trên đặt ra một “tiền giả định thi pháp”, ở đây, “đợi quên” trở thành trục mỹ cảm trong một trạng thái tỉnh thức mềm, dịu mà bền, dẫn lối thi ảnh vừa kiệm lời vừa thấm thía làm nền cho mọi lựa chọn đề tài, giọng điệu, cấu trúc tứ.
Trong bài thơ “Những mùa hoa thương tích”, Đinh Thị Như Thúy một lần nữa học cách sống cùng thiên nhiên: “Hoa luôn tự biết làm cho mình duyên dáng/ Bằng dáng vẻ mùi hương/ Và những đường gân dệt trên cánh lụa/ Màu hoa lạnh/ Màu của ngày thứ sáu, thứ hai/ Khi con dốc mưa bụi vắng người/ Đếm từng cơn gió buốt/ Chúng ta bắt đầu biết/ Một bông hoa có thể đẹp đến nhường nào/ Trong sự nở/ Từ e dè đến nồng nhiệt/ Trong héo tàn tưởng như lời than khó/ Những bông hoa cánh rã/ Như cánh bướm sau một ngày bay/ Nói với chúng ta lời tạm biệt và biết ơn/ Được đi qua cõi đời/ Được ngắm nhìn / Được yêu/ Được sống/ Bởi đời sống không chỉ những dịu dàng nếm trải/ Sống còn để mang thương tích/ Như vết chém trên thân hoa/ Ngày được trao tặng”.
Bài thơ này là bản hiến ngôn về cái đẹp khi bông hoa biết làm duyên bằng mùi - dáng - gân lụa, đẹp ở cả khi tươi nở lẫn khi héo tàn với vẻ đẹp không vô tội vì mang “thương tích”. Cấu trúc tứ thơ cho thấy sự quan sát tinh tế của tác giả với bài học thẩm mỹ của tuyên ngôn nhân sinh: sống để mang thương tích như “vết chém trên thân hoa ngày được trao tặng”. Với thi pháp ẩn dụ mô phỏng nhịp hô hấp của một bông hoa trước gió trong trường mỹ cảm an nhiên trước thương tích và biết ơn hành trình sống.
Qua tập thơ mới, ta thấy những đóng góp của Đinh Thị Như Thúy cho thi ca đương đại là định hình một mỹ học “tối giản tỉnh thức” có sức lan tỏa trong thơ nữ hôm nay và đề xuất mô hình nữ quyền đời thường với quyền được mệt mỏi, được im lặng, được tự định nghĩa nỗi đau, và được làm lành bằng nghi thức nhỏ. Chị cũng góp phần làm mới phong cách thơ đô thị bằng trường cảm giác thay vì phóng đại hình ảnh sự kiện.
Đinh Thị Như Thúy đã bổ sung vào thơ nữ đương đại Việt Nam một tọa độ thẩm mỹ bền sâu khi không đả kích lớn tiếng nhưng bào mòn cái dữ dội bằng sự kỹ lưỡng của cảm giác và tiết chế của hơi thở. Đó là thơ của sức bền tinh thần, nó nhẹ mà sâu, dịu mà sáng nơi những vết thương không bị xóa đi, mà được đặt đúng chỗ để nảy mầm “lá xanh”.
