"Dần sáng": Chuyển động từ những bao dung
Thơ không là sự trải dài của cảm xúc mà là những lát cắt tinh tế lóe lên từ khoảnh khắc khi chủ thể sáng tạo đối thoại với hiện thực và chính mình. "Dần sáng" đã đem đến cho người đọc một sự hình dung sâu mà rộng, buồn mà bền, tinh mà sắc về những thái trạng cảm xúc, khiến người đọc phải dừng lại.
1. “Biết ơn thơ đã luôn ở lại cùng ta dù nhiều lúc thấy mình tay trắng”. Người thơ đã thổ lộ với thơ ca như vậy. Đầy chân thực và chân thành xuất phát từ chân tâm của một người làm thơ nặng lòng với chữ nghĩa. Giữa những trầm thăng cuộc đời, người thơ đối diện để đối thoại rồi nhận lại cho mình muôn thái trạng. Tự hát với chính mình bằng ngôn ngữ, thấu suốt mọi nguồn cơn để rồi dưỡng lấy một bản thể đầy bao dung.

Nguyễn Thị Kim Nhung đã thắp lên điều đó một cách dung dị và tinh tế trong xuyên suốt tập thơ mới nhất. "Dần sáng" được NXB Hội Nhà văn Việt Nam phát hành năm 2025 đã xác tín sâu sắc cho diễn ngôn thi ca ấy. Sự vận động trong ý thức sáng tạo của nhà thơ gợi từ nhan đề đã thể hiện tinh tế một tâm thế tĩnh tại, chậm lắng nhưng luôn hướng về một nguồn năng lượng ban mai.
2. Thơ không là sự trải dài của cảm xúc mà là những lát cắt tinh tế lóe lên từ khoảnh khắc khi chủ thể sáng tạo đối thoại với hiện thực và chính mình. "Dần sáng" đã đem đến cho người đọc một sự hình dung sâu mà rộng, buồn mà bền, tinh mà sắc về những thái trạng cảm xúc, khiến người đọc phải dừng lại. Thơ chị tinh lọc, tiết chế nhưng đầy khơi gợi cảm xúc và ý tưởng: “người vợ mặc lại áo/ hai vạt khép bóng đêm/ đôi vầng sáng miên mắn thầm tỏa/ sung một đời buông quả/ không chạm nổi đáy ao”.
"Dần sáng" ánh vào người đọc những hình dung về một thi quyển đầy ắp những hình ảnh mang bản sắc. Thế giới thơ của chị cứ thế mở ra và dẫn gợi: “núi đồi kề nhau vẫn lẻ/ đỉnh cao nào có thể chạm nhau/ mây trắng phơ một nỗi” (Làng đồi ). Tinh thần thơ tìm đến hình ảnh thơ một cách tự nhiên nhất và phù hợp nhất để biểu hiện và biểu tượng cho nỗi lòng chủ thể: “bao dở dang nói mãi thành đầy/ suối vắng nhờ tiếng reo khỏa lấp/ người xa quê ý nghĩ như mây” (Suối nhỏ). Thơ cứ thế là nghệ thuật của sự khơi gợi, những thi ảnh rõ ràng nhưng khi cạnh nhau lại biểu đạt những cảm giác sâu xa và nhiều khi mơ hồ, thi ảnh trong cái nhìn chỉnh thể và kết nối nhưng tự thân luôn tồn tại những rời rạc và khắc khoải.
3. Người viết bao giờ cũng có cho riêng mình một vùng đất riêng, đó là phạm vi hiện thực mà nói khái quát là đề tài xuyên suốt trong sự nghiệp sáng tác. Nơi ấy chính là suối nguồn của sáng tạo, của chiều sâu văn hóa trong thơ, của cội nguồn cho giấc mơ thơ vỗ cánh. Nguyễn Thị Kim Nhung trong suốt thi tập "Dần sáng" cũng vậy, chị thể hiện sâu sắc nỗi niềm của mình về không gian trung du xa xứ, nơi mà chính nhà thơ dù đã vời xa vẫn luôn khôn nguôi những nguồn cơn cội nguồn: “tiếng gọi loang đồng ruộng/ làm giật mình bóng đêm/ người đi soi trở về/ men theo những tờ mờ còn sót lại” (Dần sáng).
Mỗi dạng thức của thơ luôn mang đến cho người làm thơ những ưu thế nhất định trong việc truyền tải cung bậc cảm xúc. Những nỗi niềm gửi về trung du xa xăm của mình đã được chị biểu đạt thông qua thơ tự do. Ấy vậy, mà những câu thơ trong "Dần sáng" luôn là một miền khơi tưởng xa sâu, ám gợi, người đọc vì thế có thể chiêm ngưỡng và chiêm nghiệm cùng nhà thơ về trung du.
Những suy tưởng về quán xứ theo đó neo vào độc giả một cách lâu dài và thấm thía: “trung du thảm khắc nét đồi/ ước vượt lên nên ta đi mãi/ sông trốn tuổi đôi bờ xanh nhẫn nại/ đợi hội làng dâng nước gội xuân” (Dòng xuân). Thế giới đa thanh đa sắc của kỷ niệm men theo đó được gợi gậy, không đồng loạt mà lấp lánh, không vô vàn mà chọn lọc, không ủy mị mà đầy ắp những tin yêu. Mọi chiều kích trong tâm hồn thi sĩ nới rộng, chạm vào những nỗi niềm chung, câu chuyện của nhiều người. Chính sự thành thực “chúng ta chưa mất đi phần chân thật nhất của mình” đã đem lại hiệu quả cho khát khao đồng cảm.
Trong bầu khí quyển đó, nhà thơ khiến người đọc lắng nghẹn bởi nhiều vần thơ ẩn chứa những vỉa tầng sâu xa nhất của nỗi mất mát. Nhà thơ đối thoại cùng người đọc về sự muôn thuở của trung du, của chân trời ký ức, nhưng không thể giấu những xót xa lòng về những rời đi mãi mãi. Chùm thơ “Bóng cha”, “Con chưa kịp hiểu…”, “Xuân vắng” chính là những nốt trầm lặng và sâu cùng.
Những khuyết thiếu, mồ côi, trống vắng, khắc khoải, từ biệt, kiếm tìm, đợi mong và cả những trăn trối hiển hiện trong từng câu chữ. Người thơ như “nắng tìm quê để ấm”, tìm rồi thì gặp được, gặp được rồi lại đối mặt biệt ly, ý nghĩ cứ thế là mây trắng phủ bóng xuống khu vườn: “những con sáo bao năm cha bầu bạn/ con thả về trời một sớm mai/ chúng đã kịp để lại lời từ biệt/ trong khoảnh khắc hiểu được tự do” (Con chưa kịp hiểu…).
Dẫu muôn thái trạng khởi từ mất mát ẩn đầy trong thơ, nhưng người thơ không khiến mọi thứ trở nên quánh đặc và sầu muộn. Ở đó vẫn toát lên tâm thế của một bản lĩnh đối mặt và vươn lên: “mầm mới còn mơ trong đất mỏi/ nụ thầm hé triển xa/ mùa xuân còn đâu đó/ khi tôi nghĩ về người” (Xuân vắng). Đó cũng là cách nhà thơ bao dung thắp lửa vào lòng người dù âm thầm nhưng rồi sẽ rực cháy.

Từ quê hương, gia đình rồi đi tới chính mình. Đó là một hành trình đi từ những gì rộng đến hẹp, men theo mạch cảm xúc đó, người đọc có thể hiểu rõ hơn về chân dung tâm hồn thi sĩ. Chị thống nhất trong giọng điệu, những lời thơ in dấu bản thể nhất đã xác chứng sống động cho tinh thần thơ là “thư ký trung thành của trái tim”.
"Dần sáng" vì thế đã chiếu rọi một sự tự thức, đối diện và đối thoại với chính mình. Những không gian thơ mới hơn như căn phòng trên phố, sông vắng, khói phố cuối năm mở ra và bao dung chủ thể, cho chủ thể một điểm tựa vững chãi mà nhiều khi mong manh để tự tình: “mẹ đã sinh con tuổi ngựa/ xin hãy ru con bài hát xa nhà/ tháng tư sấm nhiều hơn cỏ/ đắng cay sau đồi đắng đót nở hoa” (Đêm).
Những màu sắc của nỗi buồn, cô đơn, lạc lõng, giấc mơ hiện rõ sau từng thi ảnh giàu gợi cảm. Nhà thơ đã chạm đến cùng vào bản thể để thơ ca trở nên tự nhiên nhất mà truyền đi được nhiều nhất. Sự soi chiếu ấy đa chiều bởi sự xuất hiện của nhiều tư cách mà chủ thể hóa vào, đó là người mẹ, người khách, người thiếu phụ và có khi là “đứa trẻ bạc đầu”.
Và kể cả khi được sống trong những khoảnh khắc vẹn tròn người thơ cũng nhận ra được những chông chênh, mông lung, bởi chủ thể thơ ý thức sâu sắc trạng thái bất toàn của đời sống: “nồng thu/ mùi ổi rộ lên bức tranh tĩnh vật/ ta tự làm cuộc chia ly” (Nồng thu), hay “mỗi ngày ta gặp nhiều hơn/ nhưng trong lòng khuyết đi vài chỗ/ cứ tưởng buông là nhẹ/ tiếng rơi xót gió mặt hồ” (Vỡ lòng).
Ở một khía cạnh khác, "Dần sáng" mang đến một cái nhìn sắc nét về nhà thơ Nguyễn Thị Kim Nhung. Vì nhờ “lửa thay lời thắp những bao dung” (Mai) mà chị luôn nhận ra và rồi hóa giải trong lặng im những mặt đối lập để cân bằng: “trong khuyết thiếu vẫn thừa ra tiếng khấn” (Con chưa kịp hiểu…), “khêu đèn khuya nhưng lòng tự tắt” (Làm mẹ), “lòng nhen lửa vẫn còn giá lạnh” (Trái mùa),…
Và với những vùng đất chị có dịp đặt chân đến, chị cũng luôn nhạy bén quan sát và phát hiện, từ đó trải mình trên những tứ thơ mới mẻ như “Mùa thu Sơn Tây”, “Chiều thổ lộ”, “Nghĩ bên sông Hương”, “Mưa Tuy Hòa”… đầy tinh tế và bao dung. Người thơ nhiều lần tạo ra những âm thanh đặc biệt và riêng có từ những va chạm của những thi ảnh gần gũi: “gạo đổ vào nồi để lại tiếng vang” (Dần sáng), “mỗi lần trở về lại thấy mình rơi/ tiếng gầu va vỉa đá” (Tháng Tư trở lại). Chính những âm thanh đó góp phần dẫn người đọc bước vào sâu hơn thế giới thơ của chị.
4. “Tôi không muốn lòng mình khép lại” (Bóng tối), đó phải chăng chính là một sự nhắn nhủ sâu sắc với chính mình của nhà thơ Nguyễn Thị Kim Nhung? Giữa muôn mặt đời thường muốn bước tiếp người ta đâu có cách nào khác ngoài việc đối diện. Và người thơ càng phải thế, luôn mở rộng lòng mình để đối diện và đón nhận, kể cả những mất mát, khổ đau. Bởi chỉ có dấn thân, nhà thơ mới có thể làm đầy chính mình, làm mới cảm xúc để sáng tạo. Làm được điều đó không hề giản đơn, đòi hỏi ở người thơ một trái tim luôn khao khát, một nội tâm trắc ẩn mà bản lĩnh và cả những bao dung với tất cả.
"Dần sáng" ấy vậy chính là sự chuyển động khởi từ những bao dung với quê hương, ký ức, cuộc đời, sau nhiều rời xa, mất mát. Thi tập đã mở ra một thế giới đầy ánh sáng mà ở đó mỗi độc giả sẽ có những cách riêng để đón lấy và chiếu rọi vào mình. Dù dâu bể trầm thăng, Nguyễn Thị Kim Nhung vẫn xác tín vào thơ: thơ đón nhận, thơ giãi bày, thơ bao dung, thơ luôn là điểm tựa tinh thần để sống và "Dần sáng" sau bao Thức cùng tưởng tượng…