Kỷ niệm 250 năm ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du (1765 -2015)

Trở lại “nét ngài nở nang” của Thúy Vân và tiếng nghệ Tĩnh trong “Truyện Kiều”

Thứ Năm, 23/07/2015, 08:19
Những người thích tìm hiểu "Truyện Kiều" đều biết rằng, cuộc tranh cãi về "nét ngài" của Thúy Vân của các học giả ngót hai trăm năm qua bất phân thắng bại, cũng giống như cuộc tranh cãi cào cào, châu chấu hay tôm và tép. Kết cục thì không ai chịu ai, mỗi người cứ giữ nguyên ý kiến của mình trước khi vào cuộc tranh luận.

Con nào là cào cào, con nào là châu chấu; con nào tép, con nào tôm… tưởng đơn giản vô cùng, chỉ vì quen gọi theo từng địa phương mà khó phân xử đúng sai, huống chi cái nét ngài của cô Thúy Vân từ những năm "Gia Tĩnh triều Minh" bên Tàu, cách nay ngót năm trăm năm, thì còn khó gấp bội. Ta cùng đọc lại hai câu thơ 19 - 20 tả Thúy Vân:

Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét NGÀI nở nang

Những người cho nét ngài đó là nét lông mày, cái chính là dựa vào văn bản của các bản Kiều Nôm xuất bản nửa cuối của thế kỷ XIX, như các bản Liễu Văn Đường, Thịnh Mỹ Đường, Duy Minh Thị… đều viết chữ "ngài" đó có "bộ trùng", thì tất phải là con tằm ngài rồi, nên không chấp nhận ý kiến khác. Những người coi chữ "ngài" đó là tiếng Nghệ Tĩnh thì luận rằng, với tài năng sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Du, sẽ không bao giờ dùng tính từ "nở nang" để bổ nghĩa cho nét lông mày, vì với Cụ, thì có thể chọn được rất nhiều tính từ khác hợp hơn được đặt vào đây.

Hơn nữa, khi tả Từ Hải, Cụ đã viết: "Râu hùm, hàm én, mày ngài", chả lẽ lông mày Thúy Vân cũng như lông mày hình lưỡi búa của tướng võ? Vậy nên "nét ngài" ở đây là tiếng địa phương Nghệ Tĩnh, chỉ nét người, rất hợp với tả người một cách tương đối tổng thể, mặt đầy đặn, người nở nang… Những người "phe kia" chất vấn: "Thế thì giải thích sao khi chữ "ngài" được viết lại có bộ trùng để chỉ con ngài tằm?”

Tranh minh họa cảnh chị em Thúy Kiều - Thúy Vân gặp Kim Trọng.

Xin thưa: Trong nhiều bản Kiều Nôm chúng ta có được, đều không phải nguyên bản chữ do Nguyễn Du viết, mà do tay những người quảng bá "Truyện Kiều" chép lại rồi đem in, họ chép theo cách hiểu của riêng mình nên có khi giữ được âm mà sai nghĩa. Đối với những người miền Bắc, chữ "ngài" chỉ có hai nghĩa là con ngài tằm và một đấng được tôn trọng, ở đây họ thấy con tằm ngài là thích hợp, nên dùng chữ đó (có bộ trùng). Chuyện này không phải là cá biệt, mà xuất hiện khá nhiều trong các bản Nôm cổ, như bản Liễu Văn Đường… ví như hai câu 1565 - 1566 nói về Hoạn Thư:

Buồng ĐÀO khuya sớm thảnh thơi
Ra vào một mực nói cười như không

Chữ "đào" ở câu thứ nhất là màu đào, màu đỏ nhạt để chỉ căn phòng phụ nữ, thì lại viết có bộ mộc, chỉ cây đào! Hay như hai câu 3017 - 3010:

Huyên già dưới GỐI gieo mình
Khóc than mình kể sự mình đầu đuôi

Ở đây Nguyễn Du sử dụng phép đảo ngữ làm nhiều người hiểu nhầm, đúng ra là "gieo mình dưới gối huyên già", chủ ngữ ẩn, chỉ Thúy Kiều, và gối ở đây là "đầu gối". Trong bản Liễu Văn Đường, chữ gối được viết có bộ mộc, chỉ cái gối gỗ dùng để gối đầu, đúng ra phải viết có bộ túc, chỉ đầu gối. Điểm qua vài ví dụ như vậy để nói rằng, không phải chữ Nôm nào có trong văn bản cũng đều đáng tin cậy, như chữ "ngài" có bộ trùng mà chúng ta đang khảo sát.

Sự thật có nhà hiệu đính đã hiểu đúng, văn bản cổ đã khắc đúng chữ "ngài" để chỉ người, như "Kim Vân Kiều tân truyện" được Abel des Michels dịch ra tiếng Pháp năm 1884, hay bản "Kim Vân Kiều tân truyện", Phúc Văn Đường tàng bản (1916) và bản Kiều do cụ Chu Phi Bảng chép tay ở Diễn Châu, Nghệ An…

Trong "Truyện Kiều", Đại thi hào sử dụng một số tiếng Nghệ Tĩnh, ngoài chữ "ngài" này ra, còn một số chữ khác, như chữ "nghỉ", đại từ nhân xưng ngôi thứ ba, số ít. Với chữ Nôm, chữ "nghỉ" và "nghĩ" viết giống nhau, nên muốn phiên âm đúng, cần biết ý nghĩa của chữ "nghỉ" người Nghệ Tĩnh thường dùng với nghĩa "hắn ta", coi thường hoặc suồng sã. Ông Đinh Văn Niêm, cháu ngoại sáu đời của cụ Nguyễn Du có phát biểu một câu đáng nhớ khi nghe tin Hội Kiều Học Việt Nam đang tổ chức hiệu đính "Truyện Kiều": "Các ông muốn hiệu đính thế nào thì tùy, nhưng nếu đọc đến câu thứ 12 mà "Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung" thì tôi không thèm đọc nữa, vì như vậy là không hiểu tiếng Nghệ Tĩnh và không hiểu cụ Nguyễn Du". Tôi tán thành ý kiến ấy.

Trong "Truyện Kiều", Nguyễn Du chỉ dùng chữ "nghỉ" để chỉ Mã Giám Sinh và Sở Khanh, còn đối với ngay cả Thúc Sinh, Kim Trọng… những nhân vật chính xuất hiện nhiều, rất cần thay đổi đại từ nhân xưng cho phong phú, tránh trùng lặp… nhưng cụ không bao giờ dùng chữ "nghỉ", mà chỉ dùng chữ Kim, Thúc, Sinh, chàng mà thôi, thì sao với Vương Viên ngoại, một ông già đáng kính, thi hào lại dùng chữ "nghỉ"?

Tôi đã từng đem câu Kiều thứ 320 ra hỏi rất nhiều bạn bè mê Kiều người Bắc: "Là người hôm nọ rõ ràng chẳng nhe" thì hai chữ "chẳng nhe" nghĩa là gì? Không một ai trả lời được, dễ hiểu thôi, vì họ là người Bắc, mà ở đây cụ Nguyễn Du dùng tiếng Nghệ. Để bắn súng hoặc bắn cung đúng đích, người bắn phải ngắm. Ngắm là tiếng phổ thông, còn tiếng Nghệ gọi là "nhe". Chữ "nhe" còn có nghĩa rộng là ngắm nghía, cân nhắc, suy xét… một cách cẩn thận. Một vị bác sĩ ở Hà Tĩnh bảo với tôi rằng, khi mua cam, anh chọn được mười quả rồi, đang phân vân xem có nên đổi quả nào không, thì bà bán cam nói: "Mười quả nớ to nhất rổ rồi, còn nhắm với nhe chi nữa"! Với ý nghĩa ấy, Kim Trọng không cần cân nhắc, suy xét (chẳng nhe) cũng nhận ra Thúy Kiều là người hôm nọ!

Còn hai câu 1133 - 1134:

Tú Bà tốc thẳng tới nơi
Hằm hằm áp ĐIÊåU một hơi lại nhà

Hai chữ đầu câu bát, nhiều bản phiên âm là "Hăm hăm", như thế không chính xác, mà phải là "hằm hằm", chỉ bộ mặt tức giận nhưng không nói gì. Nhưng ở đây tôi muốn bàn ba chữ "điệu một hơi", là thành ngữ quen thuộc người Nghệ đến ngày nay vẫn quen sử dụng. Tôi đã hỏi nhà Kiều học Nguyễn Khắc Bảo, quê Bắc Ninh rằng, người quê anh có hiểu chữ "điệu" ở đây nghĩa là gì không. Anh Bảo trả lời rằng, chỉ những ai học chữ Hán mới hiểu, còn nói chung thì không. Chữ "điệu" vốn là động từ Hán Việt, theo nghĩa lôi, kéo… và người Nghệ lâu nay vẫn sử dụng trong ngôn ngữ hằâng ngày, theo nghĩa dùng nhiều sức để lôi, để kéo một người, một động vật theo ý mình, trong khi đối tượng bị kéo luôn chống lại. "Điệu một hơi" là nín thở mà kéo, vì nín thở nên Tú Bà không nói gì, mà vẻ mặt hằm hằm, giận dữ.

 Xét thêm một trường hợp nữa, câu 585 - 586:

Điều đâu bay buộc ai làm
Vì ai đan RẬP giật giàm bỗng dưng.

Trong bản Liễu Văn Đường 1971 do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm, chữ thứ tư ở câu bát được phiên âm là rập, nhưng in nghiêng như những chữ đáng nghi ngờ khác, vì ông Tuân không hiểu chữ RẬP có nghĩa gì. Đây cũng là một từ Nghệ Tĩnh quen thuộc, chỉ dụng cụ để đánh bắt giơi, bắt chim, gồm hai sào nứa, khoảng giữa căng lưới, thường ban đêm căng trên đường giơi bay đi ăn quả, hoặc chim bay khi bị người đánh động bằng cách dùng sào đập vào các bụi rậm chúng ngủ đêm. Khi giơi hoặc chim vướng vào lưới thì hai sào nứa được người ta rập lại sát nhau, để chúng không thể bay ngược trở lại được. Vì cái động tác "rập" đó, mà dụng cụ này có tên gọi là cái rập. Kiều Oánh Mậu cũng không hiểu được ý nghĩa chữ này, nên ông đổi thành chữ "giậm", chỉ dụng cụ bắt cá!...

Nguyễn Du quê Hà Tĩnh, sinh ra và lớn lên ở Thăng Long, sinh thời ông sống nhiều vùng quê từ Phú Xuân ra Bắc Hà. Ông sống ở quê Hà Tĩnh một số lần, đợt dài nhất sáu năm trời… nên ông hiểu tiếng Nghệ và trong sáng tác văn chương, thi thoảng ông có dùng một ít từ Nghệ có chọn lọc, chứ không bao giờ sử dụng tràn lan tiếng địa phương như một số người khác chỉ sống trên vùng đất này. Khi đọc "Truyện Kiều", chúng ta lưu ý điều này, và thật may cho bạn đọc phổ thông, số tiếng Nghệ trong "Truyện Kiều" khá ít, chắc đếm chưa hết trên đầu mười ngón tay!

Vương Trọng
.
.