Bến Tre – “bàn đạp” chiến lược cho tăng trưởng mới của tỉnh Vĩnh Long sau sáp nhập
Chỉ vài ngày nữa, tỉnh Vĩnh Long mới trên cơ sở hợp nhất địa giới hành chính các tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre và Trà Vinh (hiện tại), chính thức đi vào trang sử mới của đất nước. Không chỉ được mở rộng diện tích địa lý, dân số và quy mô kinh tế, mà tỉnh Vĩnh Long mới còn hình thành một cấu trúc kinh tế - xã hội phức hợp hơn, giàu tiềm năng hơn. Trong tổng thể ấy, Bến Tre nổi lên như một “đầu kéo chiến lược”, đóng vai trò then chốt giúp tỉnh Vĩnh Long mới đạt được các mục tiêu trong hai kịch bản tăng trưởng GRDP bình quân 8% hoặc 10%/năm giai đoạn 2025–2030.
Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Vinh – Viện Nghiên cứu và Tư vấn phát triển vùng – Trường Đại học kinh tế TP Hồ Chí Minh, các kịch bản này dựa trên dữ liệu tổng hợp GRDP, cơ cấu ngành kinh tế, tổng thu ngân sách nhà nước, tổng đầu tư toàn xã hội, và tỷ lệ thu ngân sách/GRDP từ ba tỉnh hợp nhất (Vĩnh Long – Bến Tre – Trà Vinh).
Cánh cửa mở ra kinh tế biển vùng sáp nhập

Bến Tre sở hữu hơn 65 km bờ biển cùng hệ sinh thái ven biển phong phú, mở ra tiềm năng to lớn cho phát triển kinh tế biển – đây là điều dễ dàng nhận ra. Sau sáp nhập, những lợi thế này không chỉ “làm đầy” cấu trúc ngành kinh tế mà còn mở đường để Vĩnh Long mới thực hiện chuyển dịch mô hình phát triển theo hướng kinh tế biển và dịch vụ hậu cần cảng – một trụ cột chiến lược trong kịch bản tăng trưởng 10%.
Các dự án công nghiệp ven biển, năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời), nuôi trồng thủy sản công nghệ cao – vốn đã được quy hoạch tại Bến Tre – nếu được triển khai đồng bộ trong quy hoạch Vĩnh Long mới, sẽ tăng đáng kể quy mô GRDP khu vực II và III, góp phần quan trọng đạt chỉ tiêu tăng trưởng cao.
Trong cả hai kịch bản tăng trưởng, khu vực II (công nghiệp – xây dựng) đều được xác định là trụ cột tăng trưởng, với quy mô GRDP tăng từ 37,2 nghìn tỷ đồng lên 56,3 nghìn tỷ đồng (kịch bản 8%) hoặc vượt 63,4 nghìn tỷ đồng (kịch bản 10%) vào năm 2029. Nguồn lực quan trọng cho sự tăng trưởng này đến từ hệ thống cụm công nghiệp, khu công nghiệp tại Bến Tre, đặc biệt là những khu có khả năng mở rộng nhanh (như Giao Long, An Hiệp,…).
Việc đưa các khu công nghiệp này vào hệ thống quy hoạch chung sau sáp nhập không chỉ bổ sung không gian phát triển cho khu vực công nghiệp vốn hạn chế tại Vĩnh Long (hiện tại), mà còn tạo điều kiện lan tỏa sản xuất, thu hút đầu tư vào lĩnh vực chế biến nông sản, thực phẩm – những ngành thế mạnh truyền thống của cả ba tỉnh.
Chuyển đổi từ nông nghiệp truyền thống sang… công nghệ cao
Tuy có nền nông nghiệp truyền thống như phần lớn các tỉnh khác cùng thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, Bến Tre là một trong những địa phương đi đầu trong chuyển đổi nông nghiệp theo hướng hữu cơ, công nghệ cao và gắn với chuỗi giá trị. Đây là mô hình mẫu có thể nhân rộng ra toàn vùng sáp nhập, đặc biệt trong bối cảnh kịch bản tăng trưởng 10% nhấn mạnh yêu cầu nâng cao năng suất lao động và giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích.
Các mô hình hợp tác xã kiểu mới, nông nghiệp thông minh và nông nghiệp ứng dụng chuyển đổi số tại xứ Dừa có thể trở thành công cụ then chốt để tỉnh Vĩnh Long mới đạt chỉ tiêu nâng tỷ lệ đóng góp TFP (năng suất các yếu tố tổng hợp) vào GRDP, một trong các chỉ tiêu chiến lược được đề xuất cho nhiệm kỳ 2025–2030.
Lãnh đạo tỉnh Bến Tre chia sẻ, không chỉ góp phần vào tăng trưởng kinh tế, Bến Tre còn đóng vai trò “vùng đệm” về thể chế và nguồn nhân lực trong quá trình hiện đại hóa bộ máy sau sáp nhập. Theo một báo cáo mới đây, tỷ lệ lao động qua đào tạo, mức độ hài lòng với dịch vụ công, chỉ số cải cách hành chính ở Bến Tre đều ở mức khá so với mặt bằng khu vực, cho thấy khả năng “góp sức” vào cải thiện hiệu quả quản trị công ở quy mô mới của tỉnh hợp nhất.
Thêm vào đó, định hướng phát triển của Bến Tre chú trọng đến ứng phó biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường, phù hợp với các yêu cầu mới của Nghị quyết 36-NQ/TW về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển và các chỉ tiêu phát triển xanh trong nghị quyết đại hội tỉnh sau sáp nhập.
Tăng trưởng bền vững và… bứt phá
Các chuyên gia kinh tế cho rằng, nếu kịch bản tăng trưởng 8% phản ánh mục tiêu ổn định, khai thác hiệu quả hiện trạng, thì kịch bản tăng trưởng 10% là một lựa chọn táo bạo, đòi hỏi sự đột phá về thể chế, đầu tư và đồng thuận xã hội cao. Trong cả hai trường hợp, sự đóng góp của Bến Tre là không thể thiếu – từ không gian phát triển công nghiệp – dịch vụ, đến động lực chuyển đổi mô hình nông nghiệp, và nền tảng phát triển kinh tế biển.
Câu hỏi lớn đặt ra: Tỉnh Vĩnh Long mới có dám đầu tư mạnh tay để “kích hoạt” các tiềm năng chiến lược của Bến Tre không? Và câu trả lời là: Nếu có, thì sự bứt phá không chỉ là một kịch bản trên giấy, mà là một tương lai có thể chạm tới.

Từ quan điểm của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm - hợp nhất không chỉ là ghép địa giới, mà là tái thiết mô hình phát triển, các chuyên gia kinh tế đồng quan điểm với chúng tôi rằng: Trong tiến trình tái thiết đó, Bến Tre không chỉ là một phần của Vĩnh Long mới – mà chính là phần quan trọng nhất để Vĩnh Long mới trở thành một trung tâm tăng trưởng bền vững, hiện đại và có năng lực cạnh tranh vùng. Khai thác tốt vai trò của Bến Tre chính là lời đáp cho tham vọng phát triển mạnh mẽ sau sáp nhập.
Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Vinh – Viện Nghiên cứu và Tư vấn phát triển vùng – Trường Đại học kinh tế TP Hồ Chí Minh, mỗi tỉnh có một số chỉ tiêu riêng phản ánh đặc điểm phát triển. Vĩnh Long có chỉ tiêu về đô thị hóa và lao động có bằng cấp. Do vùng ven biển và định hướng cải thiện dịch vụ công nên tỉnh Bến Tre nhấn mạnh đến hài lòng dịch vụ công và ứng phó biến đổi khí hậu. Trà Vinh quan tâm đến xử lý chất thải y tế và cơ cấu chuyển dịch ngành. Các chỉ tiêu này phản ánh tính thích ứng và địa phương hóa. Tuy nhiên, việc giữ lại toàn bộ sẽ gây phân mảnh sau sáp nhập.
“Việc xác lập hệ thống chỉ tiêu trong Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2025–2030 cần bảo đảm tính kế thừa, phản ánh được các mục tiêu phát triển chiến lược, phù hợp với định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng của Trung ương. Trên cơ sở đó, các chỉ tiêu trùng khớp giữa ba tỉnh được tiếp tục duy trì nhằm bảo đảm tính thống nhất, trong khi các chỉ tiêu mới được bổ sung để đo lường hiệu quả quá trình chuyển đổi mô hình phát triển, thích ứng biến đổi khí hậu, và hội nhập quốc tế. Các chỉ tiêu bổ sung không chỉ tính đến bối cảnh thay đổi của Trung ương về sáp nhập địa giới hành chính, tái cơ cấu nhiều tổ chức của địa phương, mà còn phù hợp với quyết sách mới từ các Nghị quyết Trung ương như Nghị quyết 57-NQ/TW, Nghị quyết 68-NQ/TW và Nghị quyết 59- NQ/TW”, PGS.TS Nguyễn Ngọc Vinh bày tỏ quan điểm.