Tranh dân gian Đông Hồ - Di sản cần bảo vệ khẩn cấp

Chủ Nhật, 21/12/2025, 17:56

Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ vừa chính thức được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, tại Kỳ họp lần thứ 20 của Ủy ban Liên chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO.

Sự kiện đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong hành trình 11 năm kiên trì lập hồ sơ, vận động và bảo vệ di sản của tỉnh Bắc Ninh cùng các bộ, ngành, chuyên gia, đặc biệt là cộng đồng nghệ nhân làng tranh Đồng Hồ - những người đã giữ lửa truyền thống qua nhiều thăng trầm, dâu bể.

ngh%3f nhân hoàn thi%3fn b%3fc tranh ðông h%3f.jpg -0
Nghệ nhân hoàn thiện bức tranh Đông Hồ.

1. Tranh dân gian Đông Hồ là nghề làm tranh khắc gỗ dân gian, thuộc lĩnh vực nghề thủ công truyền thống, được cộng đồng dân làng Đông Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh sáng tạo và phát triển từ mấy trăm năm qua, có giá trị về lịch sử, văn hóa và nghệ thuật đặc sắc. Đây là dòng tranh gắn bó và thể hiện sinh động xã hội nông nghiệp Việt cổ truyền, cuộc sống lao động của người nông dân bình dị, chất phác, phong tục, tập quán, sinh hoạt của người dân Việt.

Để thể hiện một bức tranh, ngoài bản nét đen chủ đạo, tranh mẫu có bao nhiêu màu thì cần bấy nhiêu bản gỗ khắc in màu tương ứng. Đặc biệt, giấy in là loại giấy dó truyền thống, có quét điệp và màu sử dụng in tranh được chế từ nguồn gốc tự nhiên, như màu vàng của hoa hòe, màu đỏ của hoa hiên, màu trắng từ bột vỏ sò, điệp và màu đen của than lá tre.... Những màu sắc tự nhiên, dung dị nhưng cũng vô cùng độc đáo.

Theo nghiên cứu của Cục Di sản, về thể loại, dựa vào nội dung chủ đề, có thể chia tranh Đông Hồ thành 7 loại chính, gồm tranh thờ, tranh chúc tụng, tranh lịch sử, tranh truyện, tranh phương ngôn, tranh cảnh vật và tranh phản ánh sinh hoạt. Khi sáng tác mẫu tranh, các nghệ nhân thường sử dụng bút lông và mực Nho để vẽ lên giấy bản mỏng và phẳng để người thợ khắc, đục ván theo mẫu.

Việc sáng tác mẫu tranh không phải là việc của riêng các nghệ nhân mà thường là kết quả chung của một làng tranh, của nhiều thế hệ. Cũng chính vì thế mà trong tranh Đông Hồ, có trường hợp một mẫu nhưng có nhiều dị bản khác nhau, hoặc một mẫu tranh cũng có đến hai, ba cách phân bố màu khác nhau. Vì vậy, có nhiều mẫu tranh cổ đến nay chúng ta cũng chưa xác định được chủ nhân sáng tạo.

Về giá trị nghệ thuật, so với các dòng tranh khác, tranh dân gian Đông Hồ có tính biểu trưng, trang trí nhưng vẫn giữ được nét mộc mạc, dễ hiểu, gần gũi với đời sống của người dân vùng châu thổ Bắc Bộ, độc đáo trong việc sử dụng đường nét tiết giản và những mảng màu dẹt đều, là màu tự nhiên của cỏ cây, hoa lá, tươi sáng trên nền giấy dó quét điệp óng ánh.

Tranh dân gian Đông Hồ phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, vật chất của con người, xã hội theo quan điểm mỹ học dân gian của người dân nơi đây. Đó là những bức tranh khắc họa ước mơ ngàn đời của người lao động về cuộc sống gia đình thuận hòa, ấm no, hạnh phúc, về một xã hội công bằng, tốt đẹp. Tranh dân gian Đông Hồ góp phần không nhỏ vào việc lưu giữ những vốn văn hóa truyền thống của dân tộc, làm cho đời sống tinh thần của người Việt Nam thêm phong phú.

2. Sau năm 1945, nghề làm tranh dân gian Đông Hồ đứng trước nguy cơ mai một, không có người đến mua tranh. Do đó, các gia đình chuyển sang làm hàng mã. Cuộc sống đã thay đổi, nhu cầu tiêu thụ hàng hóa cũng đã khác khiến người dân không còn nhu cầu mua và sử dụng tranh Đông Hồ trang trí mỗi dịp Tết đến. Hiện nay, tranh Đông Hồ không còn được bày bán rộng rãi mà chỉ còn là một món đồ lưu niệm hoặc xuất hiện trong các sự kiện giao lưu văn hóa. Tranh cứ thế mai một dần.

Theo thống kê mới đây, số lượng nghệ nhân hiện chỉ còn 3 người, số lượng người thực hành khoảng 20 người, số nghệ nhân hiện còn khả năng truyền dạy chỉ còn 2 người (ông Nguyễn Hữu Sam và ông Nguyễn Đăng Chế) đều đã cao tuổi.

tranh dân gian ðông h%3f.jpg -1
Tranh dân gian Đông Hồ.

Ngoài ra, theo đánh giá của một số họa sĩ, tranh Đông Hồ không còn mang tính hồn nhiên, chất phác, “thuần Việt” như xưa, mà đang dần bị thương mại hóa, không có màu sắc thắm như tranh cổ, do người ta trộn màu trắng vào điệp để tiết kiệm lượng điệp, khiến giấy mất độ óng ánh. Đồng thời, màu sử dụng cũng chuyển sang dùng loại màu công nghiệp cho rẻ và tiện, các bản khắc mới thường thô và sơ sài, không được tinh tế như bản cổ. Đặc biệt, một số bản khắc đã bị đục bỏ phần chữ Hán, hoặc chữ Nôm, vốn là một phần cấu tạo nên bố cục của tranh, khiến tranh bị mất đi tính hoàn chỉnh.

Trong bối cảnh đó, việc UNESCO ghi danh tranh Đông Hồ là Di sản cần bảo vệ khẩn cấp thực sự có ý nghĩa. Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hoàng Đạo Cương, Trưởng đoàn Việt Nam tham dự kỳ họp cho rằng, việc này thể hiện sự đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với những giá trị độc đáo, lịch sử và ý nghĩa nhân văn sâu sắc của dòng tranh dân gian đã gắn bó với đời sống văn hóa người Việt hàng trăm năm qua, đồng thời là một sự ghi nhận kịp thời đối với một di sản đang đứng trước nguy cơ cao bị mai một.

Ngay sau khi di sản được UNESCO ghi danh, tỉnh Bắc Ninh triển khai chương trình hành động bảo vệ khẩn cấp nghề làm tranh dân gian Đông Hồ theo đúng cam kết quốc tế như củng cố lực lượng nghệ nhân, mở các lớp truyền dạy và đào tạo thế hệ kế cận, bảo đảm nghề có người tiếp nối lâu dài… Nhưng di sản chỉ thực sự sống và bền vững từ chính cộng đồng. Vì thế, điều cần hơn nữa là chính sách khuyến khích, hỗ trợ các nghệ nhân - chủ thể của di sản sáng tạo, truyền dạy cho các thế hệ trẻ, để nối dài đời sống của di sản.

Chúng ta cũng cần tăng cường hợp tác quốc tế để nghiên cứu, học tập mô hình hay, hiệu quả của các quốc gia trên thế giới trong việc bảo tồn, phát huy giá trị và quảng bá di sản tranh dân gian Đông Hồ ra quốc tế. Và điều mấu chốt là cần đẩy mạnh truyền thông, xây dựng đa dạng sản phẩm trải nghiệm, kết nối thị trường để người làm nghề có sinh kế bền vững.

Theo Ủy ban Liên Chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, Hồ sơ đề cử di sản văn hóa phi vật thể Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ của Việt Nam đáp ứng các tiêu chí ghi danh vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, cụ thể:

1. Tranh dân gian Đông Hồ gắn bó mật thiết với các lễ tiết quan trọng như Tết Nguyên đán và Tết Trung thu, cũng như các nghi lễ thờ cúng tổ tiên và thần linh. Ngày nay, chỉ còn một số ít gia đình tiếp tục duy trì nghề này, truyền lại tri thức và kỹ năng trong phạm vi gia đình và cho người học việc thông qua hướng dẫn trực tiếp và kèm cặp thực hành. Một số công đoạn như vẽ mẫu và khắc bản in đòi hỏi đào tạo chuyên sâu và tích lũy kinh nghiệm trong nhiều năm. Các bản khắc gỗ được xem như báu vật gia truyền, được truyền lại qua nhiều thế hệ.

2. Số lượng nghệ nhân lành nghề đã giảm mạnh (theo hồ sơ đề cử, chỉ còn vài hộ gia đình duy trì nghề), do thế hệ trẻ ít quan tâm, nghề khó bảo đảm sinh kế, và nhu cầu sử dụng tranh in khắc gỗ trong các dịp lễ truyền thống giảm sút. Số người có tay nghề cao và tâm huyết theo đuổi nghề đã quá ít để duy trì việc truyền dạy và làm tranh, nên nghề cần được bảo vệ khẩn cấp.

3. Kế hoạch bảo vệ đề ra các mục tiêu, bao gồm: mở các lớp truyền nghề, kiểm kê di sản, thiết kế mẫu, đa dạng hóa thị trường, cải thiện khả năng tiếp cận nguồn nguyên liệu và cung cấp thiết bị bảo hộ cho nghệ nhân. Các hoạt động được đề xuất khả thi, phù hợp với mục tiêu và có tính bền vững, đồng thời đặt cộng đồng ở vị trí trung tâm.

4. Hồ sơ cho thấy sự tham gia tích cực của cộng đồng, đặc biệt là các gia đình làm nghề, trong toàn bộ quá trình lập hồ sơ, thông qua các hoạt động kiểm kê và sự kiện công chúng.

5. Di sản đã được đưa vào Danh mục kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể, được cập nhật thường xuyên với sự tham gia của cộng đồng.

Linh Nguyễn
.
.